Chất liệu múa dân tộc: 'Kho báu' bị bỏ quên
Việt Nam là đất nước có sự phong phú về văn hóa, đặc biệt là có nền nghệ thuật múa dân gian dân tộc rất phát triển. Tuy nhiên, kho di sản quý giá này vẫn chưa được đi sâu khai thác hết, rất nhiều điệu múa dân tộc chưa được giới chuyên môn biết đến, chưa được đưa vào giảng dạy trong các trường nghệ thuật.
Đãi cát tìm vàng
Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ trước, ngành múa đã có một thế hệ đi tiên phong, mở đường cho sự nghiệp nghiên cứu, tìm kiếm chất liệu múa các dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ còn nhiều khó khăn ấy, sau mỗi lần góp nhặt, “đãi cát tìm vàng”, các thế hệ tiền bối đã mang về kết quả rất khả quan, là bộ sưu tầm chất liệu múa dân tộc khá đồ sộ, hiện đang được giảng dạy tại các trường múa, trường nghệ thuật trên cả nước. Nhưng tất cả vẫn chưa thấm vào đâu so với sự đa dạng và phong phú thực có của múa dân tộc.
Những năm gần đây, Hội Nghệ sĩ Múa Việt Nam và một số trường nghệ thuật như Học Viện Múa Việt Nam, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Tây Bắc, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc… đã tổ chức những chuyến đi thâm nhập thực tế ở các vùng miền, tuy nhiên cũng chưa khai thác hết được chất liệu múa của các dân tộc, đặc biệt là những dân tộc vùng sâu, vùng xa. Điều này một phần do nguyên nhân chủ quan bởi chúng ta chưa có nhân sự chuyên nghiệp cho công việc này. Ngoài ra, nguyên nhân khách quan là bởi khó có cơ hội để chứng kiến những hình thức múa trong môi trường sinh hoạt văn hóa truyền thống. Rất nhiều điệu múa dân tộc, đặc biệt là các dân tộc ít người chỉ được thực hiện trong một dịp nhất định, tại một không gian riêng mà không tiến hành ở bất kì thời điểm nào. Những cái khó này cộng với những hạn chế về thời gian và nguồn kinh phí khiến cho công tác sưu tầm múa dân tộc vẫn chỉ ở những bước nhỏ lẻ, chưa có những công trình bao quát toàn bộ và có hệ thống.
Nhà giáo ưu tú Đỗ Thu Hằng - nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Múa Việt Nam (nay là Học Viện Múa Việt Nam) chia sẻ, tập thể giảng viên khoa Múa Dân tộc đã từng tổ chức được nhiều đợt đi sưu tầm chất liệu múa. Sau các chuyến đi thực tế, lãnh đạo nhà trường, các chuyên gia và các giảng viên đã ngồi lại bàn bạc, thống nhất và tiến hành xây dựng giáo trình. Khách quan mà nói thì các chất liệu múa dân tộc được đưa vào giáo trình dựa nhiều trên những tư liệu tìm kiếm của các thế hệ nhà giáo lão thành từ những năm mới thành lập nhà trường.
Cũng theo bà Hằng, khi ấy các thầy cô thực hiện các chuyến đi rất tâm huyết theo đúng phương châm 3 cùng là “Cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với bà con dân tộc để học hỏi và tìm kiếm chất liệu múa trong chính môi trường truyền thống của các điệu múa ấy. Hiện nhà trường đã đưa vào giảng dạy điệu múa của 18 dân tộc với 7 cuốn giáo trình đã được xuất bản là Múa của dân tộc Kinh, Tày, Thái, Chăm, Ba Na, Gia Rai, Cơ Tu.
Nhìn lại thế hệ đi trước, chúng ta thấy rất nhiều tác phẩm múa dân tộc rất hay và ý nghĩa của các biên đạo múa như NSND Hoàng Châu với tác phẩm múa dân tộc Thái “Tây Bắc vui tươi”. NSND Chu Thúy Quỳnh với tác phẩm “Mùa xuân trên bản Mông”. NSND Lê Ngọc Canh với các tác phẩm “Hứng nắng” từ chất liệu múa Tày, múa “Cây bông” từ chất liệu múa Chơro… Đây là những “trái ngọt” trong hành trình tìm kiếm chất liệu và ý tưởng múa rất gian nan.
Chiến lược dài hơi
Kho tàng văn hóa phong phú và quý giá của 54 dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S Việt Nam đã “dệt” nên “tấm thổ cẩm” nghệ thuật rực rỡ sắc màu. Các nghệ sĩ, các biên đạo nếu biết dựa vào nền tảng vững chắc này sẽ góp nhặt được vô số chất liệu quý giá cho các tác phẩm của mình. Việc chưa khai thác hết chất liệu múa dân tộc tưởng chừng đơn giản nhưng đôi khi cũng kéo theo những hệ lụy không nhỏ. Bởi thực tế chất liệu múa của những dân tộc chưa có trong hệ thống giáo trình đào tạo múa dân gian các dân tộc Việt Nam của các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp trên cả nước. Đôi khi trong các động tác múa ấy khán giả lại gặp nét “thân quen” ở một dân tộc khác nhưng lại khó có cơ sở để đánh giá, kiểm chứng.
Không những vậy, trong quá trình giao thoa và chuyển tiếp văn hóa đang nảy sinh hiện tượng đánh mất bản sắc, thậm chí là mất nhiều di sản văn hóa, nhất là đối với những nhóm dân tộc đặc biệt ít người. Đôi khi biên đạo nhầm lẫn múa của dân tộc này với dân tộc khác, âm nhạc hay trang phục của dân tộc này với dân tộc khác rồi “chắp vá” một cách tùy tiện mà ít quan tâm đến việc sưu tầm, nghiên cứu về giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của điệu múa đó.
Hiện nay chúng ta thấy những nghệ nhân – người nắm giữ di sản truyền thống đa phần đều đã già yếu, bởi vậy rất nhiều điệu múa, dân ca, dân vũ chỉ còn tồn tại trong trí nhớ của người già, hoặc mai một hẳn, không ai còn nhớ đến.
Chính vì vậy, việc xây dựng dự án mang tính chiến lược cho công tác tìm kiếm, sưu tầm và xây dựng bộ tài liệu chuẩn cho múa dân tộc là việc làm vô cùng cần thiết, cần phải thực hiện với sự chung tay của Nhà nước, các cơ quan chức năng, các trường đào tạo múa, các nghệ sĩ múa và các nghệ nhân của các dân tộc. Việc chung tay góp sức này không chỉ khiến cho công tác sưu tầm được thực hiện đồng bộ, bài bản, đúng hướng và mang lại hiệu quả mà còn giúp nâng cao nhận thức về hoạt động bảo tồn văn hóa, khơi dậy niềm tự hào và tình yêu của các thế hệ người dân đối với các di sản văn hóa quý báu của cha ông. Qua đó, biến nghệ thuật múa dân tộc trở thành sản phẩm du lịch độc đáo, đặc thù, làm giàu cho chính mảnh đất nuôi dưỡng các điệu múa ấy.