Phép màu cho gốm Chu Đậu
Gốm Chu Đậu (Nam Sách, Hải Dương) là dòng gốm đẹp trên thế giới ở thế kỷ 15-16. Năm 1999, ở Anh có hiện vật gốm Chu Đậu được đấu giá tới hơn nửa triệu đô la. Dù vậy, dòng gốm này đã có một thời gian dài bị quên lãng, và sau đó được hồi sinh như có phép màu…
Từ một phát hiện bút tích
Câu chuyện bắt đầu từ năm 1980, gắn liền với tên tuổi ông Makoto Anabuki. Một lần đi công cán ở Thổ Nhĩ Kỳ, ông thấy một bình gốm hoa lam trưng bày ở Bảo tàng quốc gia Takapisaray ở Istabun. Bình gốm có 13 chữ Hán “Thái Hoà bát niên Nam Sách châu tượng nhân bùi thị hý bút”. Có người dịch ra tiếng Việt: Năm Thái Hoà thứ 8 (1450) tại châu Nam Sách người thợ gốm họ Bùi vẽ chơi. Lại có người dịch: Năm Thái Hoà thứ 8 (1450) tại châu Nam Sách người thợ gốm Bùi Thị Hý viết. Dòng chữ được dịch ra nhiều nghĩa khác nhau đã có lúc “làm khó” giới nghiên cứu khảo cổ.
Ông Makoto Anabuki khi đó đã viết thư cho người đứng đầu tỉnh Hải Hưng và đề nghị cho biết Nam Sách châu ghi trên bình gốm ở đâu, Bùi Thị Hý là ai, và di tích lò gốm ở chỗ nào?… Đương nhiên chuyện khảo cổ phải được nghiên cứu từng bước một cách khoa học.
Ba năm sau (1983) nhân dịp ở tỉnh Hải Hưng có chuyên đề nghiên cứu nghề cổ truyền, thế là vấn đề gốm Chu Đậu có cơ hội được xúc tiến. Thế nhưng cũng phải đến đầu năm 1986 người ta mới tổ chức khai quật lần thứ nhất. Kết quả ngoài mong đợi. Hóa ra dưới lớp đất phù sa màu mỡ là cả một thế giới đồ gốm mỹ nghệ thế kỷ 14-16, mà từ trước đến thời điểm đó chưa từng được phát hiện. Đã có 7 cuộc khai quật, trong đó có 2 cuộc liên kết với Trường Đại học Tổng hợp, và Viện khảo cổ học Việt Nam.
Từ những báo cáo kết quả công khai và qua các kỷ yếu, thông tin về gốm Chu Đậu đựơc lan truyền toàn thế giới. Các đoàn khách Mỹ, Nhật, Australia, châu Âu, khu vực Đông Nam Á vào Việt Nam, về Chu Đậu tham quan. Thì ra đã có tới bốn chục bảo tàng quốc tế đang lưu trữ và trưng bày gốm Chu Đậu.
Nhiều học giả nước ngoài rất thích thú khi phát hiện ra xuất xứ một dòng gốm Chu Đậu. Một gia đình ở Thổ Nhĩ Kỳ có hẳn một sưu tập gốm mi ni của Chu Đậu. Họ tự in thành sách, mang sang Việt Nam rồi đi thăm Chu Đậu, tặng người Hải Hưng (nay là Hải Dương). Nhiều vị khách nước ngoài tự hào được mục sở thị trước di tích gốm đặc biệt này.
Lại một duyên may, năm 1993 tại eo biển ở Philipines, các nhà khảo cổ học đã trục vớt một con tàu đắm ở cuối thế kỷ 15, trong đó có hàng nghìn hiện vật gốm Chu Đậu. Cũng năm này một số ngư dân vớt được ít đồ gốm tại biển Cù Lao Chàm cách đất liền 40 cây số ở độ sâu 70 mét. Trục lên còn có hàng trăm nghìn hiện vật còn nguyên vẹn. Các nhà nghiên cứu khẳng định con tàu bị đắm chủ yếu chở hàng gốm Chu Đậu và suy ra các lò sản xuất phải có công suất rất lớn.
Sau đó tìm lại lịch sử phát triển các dòng gốm cổ Việt Nam từ các nguồn tài liệu trong nước và quốc tế mới khẳng định được giá trị của gốm Chu Đậu là dòng gốm đẹp trên thế giới ở thế kỷ 15-16. Thậm chí, ở Anh năm 1999 có hiện vật được đấu giá tới hơn nửa triệu đô la .
Đến bản gia phả họ Bùi ở Gia Lộc
Theo bản gia phả họ Bùi ở Gia Lộc: Cụ Bùi Đình Nghĩa, người đất Minh Ngọc, Nam Xang, Bình Lục, tỉnh Hà Nam, sinh năm Đinh Mão thời Trần Đế Hiện Đại vương, là con trai tướng quân Bùi Quốc Hưng, từng phù Lê Thái Tổ đánh quân Minh. Năm Hưng Khánh thứ nhất (1407) cụ di cư đến trang Quang Ánh (nay là thôn Quang Tiến, xã Đồng Quang, huyện Gia lộc, Hải Dương).
Đất nước có giặc, cụ tòng quân ra trận, chiến đấu oanh liệt, đã hy sinh tại thành Đông Quan. Sau chiến thắng, cụ được Lê Thái Tổ xét công tích, ban cho 55 mẫu lộc điền. Tại trang Quang Ánh cụ sinh được hai người con. Con gái cả là Bùi Thị Hý, con thứ là Bùi Đình Khởi.
Vẫn theo gia phả, bà Hý là người văn hay, chữ đẹp, có kỳ tài về họa. Thời ấy bà Hý đã giả trai đi thi vào được tam trường, bị phát giác phải đuổi. Sau này bà lấy chồng ở huyện Thanh Lâm, châu Nam Sách, nhưng không có con. Năm Thái Hòa thứ 10(1452) bà cùng chồng là ông Đặng Sĩ, một chủ lớn về trang Quang Ánh quê cha làm ăn.
Tại đây bà cùng người em trai Bùi Đình Khởi, thu nạp nhân công, xây dựng lò gốm ở phía bắc trang, thuận tiện đường sông, nơi gần sông Định Đào, giao thương với Nam Sách, làm đặc sản gốm cống hoàng triều và bán cho thương nhân các nước Bắc quốc, Nhật quốc, phương Tây, trao đổi gấm vóc, gỗ, vàng bạc và cá, gạo. Thời chiến tranh Trịnh - Mạc, con cháu thất tán, không sản xuất được. Từ đó thất truyền nghề gốm cổ họ Bùi.
Bà Bùi Thị Hý mất ngày 12 tháng 8 năm Kỷ Mùi (1499), thọ 80 tuổi. Qua gia phả cho biết bà sinh năm Canh Tý 1420. Khi bà ghi bút tích lên bình hoa năm 1450 tức vào tuổi 31. Kỷ niệm 507 năm ngày mất của bà (1499-2006), chính quyền địa phương và gia tộc họ Bùi đã long trọng tổ chức tại quê bà, tôn vinh vị thủy tổ làng gốm mỹ nghệ từ hơn năm trăm năm trước.
Vì sao làng gốm Chu Đậu từng thất truyền? Người dòng lịch sử, từ thế kỷ thứ 15 gốm từng được mang tiến hoàng triều, bán cho tư thương nước ngoài. Rồi chính biến, chiến tranh, nên nghề gốm thất truyền và thực sự lụi tàn vào những năm chiến tranh Trịnh- Mạc. Họ Trịnh mang quân đánh phá vùng Nam Sách vốn là đất căn bản của quân Mạc. Lò gốm Chu Đậu theo đó cũng bị san phẳng.
Sau bốn thế kỷ bị vùi trong đất và trong quên lãng, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, gốm Chu Đậu dần dần được hồi sinh. Dòng gốm được tìm kiếm, sưu tập và sản xuất với một phong thái mới. Gốm Chu Đậu được xuất ra hơn năm chục nước, như các nước châu Âu, Nhật Bản, Tây Ban Nha… Và gần một trăm quốc gia có hàng mẫu giới thiệu.
Người có nhiều đóng góp cho công việc khôi phục gốm Chu Đậu là nghệ nhân Nguyễn Văn Lưu - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Gốm sứ Chu Đậu. Nhờ chủ trương của Đảng và Nhà nước về phục hưng làng nghề, giữ gìn bản sắc dân tộc cùng sự khuyến khích, tạo điều kiện của lãnh đạo tỉnh Hải Dương.
Năm 2001, Xí nghiệp Gốm Chu Đậu (nay là Công ty Cổ phần gốm Chu Đậu) được ra đời. Ông Nguyễn Văn Lưu đã chiêu mộ các nghệ nhân gốm từ khắp nơi về dạy nghề truyền thống, đồng thời tìm kiếm các họa sĩ, kỹ sư silicat và công nhân địa phương cùng xây dựng xí nghiệp từ hai bàn tay trắng. Khó khăn càng chồng chất khi sản phẩm chưa giải được bài toán đầu ra.
Suốt thời gian đầu, xí nghiệp tạm thời phải đi theo hướng sản xuất phục vụ xuất khẩu, sản phẩm thực hiện gia công theo đặt hàng, mang tính đại trà với giá thành rẻ. Do vậy, lửa lò gốm tuy đã hồng trở lại, nhưng thương hiệu gốm Chu Đậu vẫn chưa định vị được chính mình trên bản đồ gốm sứ Việt Nam và thế giới.
Sau tất cả, ông Nguyễn Văn Lưu vẫn tâm niệm yếu tố quan trọng nhất giúp thương hiệu gốm Chu Đậu khôi phục thành công như hiện nay chính là tâm huyết, đam mê của đội ngũ họa sĩ, kỹ sư trẻ tại Chu Đậu.
Giờ Công ty đã trở thành trung tâm sản xuất gốm lý tưởng, có cảnh quan thiên nhiên thoáng rộng, xanh sạch đẹp, với diện tích hơn ba hecta vừa sản xuất và trưng bày. Có hàng nghìn mẫu gốm với đủ các kích thước và hình dạng. Dưới bàn tay khéo léo của người thợ, họ có thể làm ra những con giống nặng từ vài chục gam, cho tới những chiếc bình tỳ bà cao 1,6 mét, nặng cả tạ.
Ở Chu Đậu bây giờ hình thành 3 cở sở sản xuất: Gốm truyền thống có hàng nghìn mẫu mã khác nhau, gốm mỹ nghệ có hàng trăm họa tiết sinh động và gốm dân dụng đa dạng thỏa mãn nhu cầu của khách nội địa tiêu dùng… Làng nghề hồi sinh đã thu hút nhiều công nhân, thợ lành nghề và tạo công ăn việc làm làm cho người lao động địa phương, giữ nghề truyền thống.
Đặc biệt ở đây có nhà trưng bày với nhiều sản phẩm độc đáo thu hút khách tham quan. Nhiều vị lãnh đạo, cán bộ cao cấp từng về thăm gốm Chu Đậu và lưu bút trên những sản phẩm gốm mang tinh hoa hồn Việt. Chu Đậu âm thầm mấy chục năm trước bây giờ trở nên sôi động bởi tình yêu của những nghệ nhân say mê với gốm.