2 luồng ý kiến về 'thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND các cấp'
Ngày 15/8, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội họp chuyên đề pháp luật cho ý kiến về dự án Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
Theo Phó Chánh án Toà án nhân dân (TAND) tối cao Nguyễn Trí Tuệ, việc xây dựng Pháp lệnh quy định thống nhất về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Xử phạt nghiêm minh những hành vi cản trở hoạt động tố tụng; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong tố tụng, giáo dục mọi người chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, phòng ngừa những vi phạm có thể xảy ra; bảo đảm quyền uy tư pháp, giữ gìn sự tôn nghiêm của Tòa án, sự tôn trọng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với các cơ quan tiến hành tố tụng; tạo điều kiện giải quyết các vụ việc nhanh chóng, hiệu quả, đúng pháp luật.
Về các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (từ Điều 25 đến Điều 38), dự thảo Pháp lệnh quy định thẩm quyền xử phạt của các chức danh tại 7 cơ quan gồm: Tòa án nhân dân (Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự); Công an nhân dân; Bộ đội Biên phòng; Cảnh sát biển; Hải quan; Kiểm lâm; Kiểm ngư.
Bên cạnh đó Pháp lệnh không quy định thẩm quyền xử phạt của các chức danh tại 3 nhóm cơ quan, gồm: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương và các cơ quan có thẩm quyền điều tra trong Quân đội nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự; UBND các cấp.
Thẩm tra vấn đề trên, Uỷ ban Tư pháp cơ bản tán thành với quy định nêu trên vì đã bảo đảm nguyên tắc phải phù hợp với quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) về các chức danh có thẩm quyền xử phạt. Đồng thời, phù hợp với nguyên tắc phân định thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực quản lý quy định tại khoản 3 Điều 52 Luật XLVPHC và có cân nhắc đến tính đặc thù của hoạt động tố tụng.
Riêng về thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND các cấp, Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội có 2 loại ý kiến. Theo đó, đa số ý kiến thống nhất với Cơ quan soạn thảo, đề nghị không quy định thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND các cấp đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng với các lý do như: Hành vi cản trở hoạt động tố tụng tác động trực tiếp đến việc giải quyết vụ án, vụ việc của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, do đó, việc quy định chỉ các cơ quan này có thẩm quyền xử phạt là phù hợp và bảo đảm tính khả thi. Lĩnh vực hoạt động tố tụng là lĩnh vực đặc thù, khác với lĩnh vực quản lý nhà nước của UBND, do đó, nếu quy định Chủ tịch UBND các cấp có thẩm quyền xử phạt hành vi cản trở hoạt động tố tụng sẽ không phù hợp với nguyên tắc tại khoản 3 Điều 52 Luật XLVPHC “Chủ tịch UBND các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương”.
Đặc biệt, trong vụ án hành chính hoặc các vụ án có liên quan, Chủ tịch UBND các cấp có thể là đương sự tham gia tố tụng và nếu có hành vi cản trở hoạt động tố tụng thì cũng là đối tượng bị xử phạt, do đó nếu giao thẩm quyền xử phạt cho Chủ tịch UBND các cấp có thể dẫn đến mâu thuẫn, không thể hoặc không ra quyết định xử phạt đối với chính mình.
Tuy nhiên, một số ý kiến trong Uỷ ban Tư pháp lại đề nghị bổ sung đồng thời thẩm quyền xử phạt cho Chủ tịch UBND các cấp đối với một số hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
Lý do bởi các hành vi vi phạm hành chính cản trở hoạt động tố tụng tuy tác động đến hoạt động tố tụng nhưng xét về bản chất đều ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm trật tự quản lý nhà nước, thuộc phạm vi quản lý của UBND. Do đó, việc giao cho cả UBND có thẩm quyền xử phạt là phù hợp. Bên cạnh đó, nếu không đồng thời giao thẩm quyền xử phạt cho Chủ tịch UBND sẽ dẫn đến một số hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương có mức phạt tiền trên 20 triệu đồng đều phải chuyển lên các cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công an (vì Giám đốc Công an cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền phạt đến 20 triệu đồng), dẫn đến nhiều bất cập trong việc bảo đảm thời hạn chuyển biên bản (trong 24 giờ), thời hạn ra quyết định xử phạt (10 ngày) theo quy định của Luật XLVPHC.