Từ 2014: Mỗi năm có hơn 100 ngàn người Việt đi lao động ở nước ngoài

M.Loan 16/08/2022 14:33

Ngày 16/8, tại Hà Nội, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Bộ Lao động - thương binh và xã hội, Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Việt Nam tổ chức Hội thảo “Lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài - Thực trạng và giải pháp”.

Ông Đỗ Ngọc An, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; ông Nguyễn Bá Hoan, Thứ trưởng Bộ Lao động, thương binh và xã hội; bà Ingrid Christensen, Giám đốc Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam; PGS.TS Phạm Bảo Sơn, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội và ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Phó chủ tịch Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam đồng chủ trì và điều hành Hội thảo.

Trong những năm qua, công tác đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về chất và lượng; thị trường lao động được mở rộng, đặc biệt là các thị trường có mức thu nhập và điều kiện lao động tốt; thị phần của lao động Việt Nam tại một số nước, vùng lãnh thổ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… gia tăng đáng kể; nhiều thị trường mới đã được mở ra như Australia, New Zealand, Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hòa Séc, Slovakia, Rumani; số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tăng ổn định, từ năm 2014 đã vượt qua con số 100.000 người/năm; trong giai đoạn từ 2013 đến 2021 đã đưa được gần 1 triệu lao động lao động đi làm việc ở nước ngoài; lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao hơn so với cùng công việc trong nước; đóng góp đáng kể vào nguồn ngoại tệ của đất nước, tăng tích luỹ và cải thiện đời sống người lao động và gia đình.

Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế và trong nước liên tục biến động, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ và sự phối hợp giám sát của người dân để đảm bảo hoạt động này đạt hiệu quả, đi vào thực chất, bảo đảm quyền và lợi ích của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Do vậy, Ban Kinh tế Trung ương chủ trì phối hợp với một số cơ quan, tổ chức Hội thảo.... nhằm bổ sung cơ sở thực tiễn và lý luận, tham mưu, đề xuất chủ trương, định hướng lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, ông Nguyễn Bá Hoan khẳng định, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, công tác đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về chất và lượng; thị trường lao động được mở rộng, đặc biệt là các thị trường có mức thu nhập và điều kiện lao động tốt; thị phần của lao động Việt Nam tại một số nước, vùng lãnh thổ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… gia tăng đáng kể; nhiều thị trường mới đã được mở ra như Australia, New Zealand, Cộng hòa liên bang Đức, Cộng hòa Séc, Slovakia, Rumani; số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tăng ổn định, từ năm 2014 đã vượt qua con số 100.000 người/năm,đóng góp đáng kể vào nguồn ngoại tệ của đất nước, tăng tích luỹ và cải thiện đời sống người lao động và gia đình.

“Tuy nhiên, tình hình người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tình hình thế giới và bối cảnh thị trường lao động trong nước. Trong thời gian qua, chúng ta đã chứng kiến những biến động quốc tế chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát, hầu hết các quốc gia đều tập trung phòng - chống dịch, thực hiện các biện pháp mạnh như đóng cửa biên giới, giãn cách xã hội… tập trung mọi nguồn lực cho nghiên cứu, sản xuất và tiêm phòng Covid-19. Việc này dẫn tới đứt gẫy chuỗi cung ứng toàn cầu và tác động tiêu cực tới nền kinh tế, làm giảm nhu cầu sử dụng lao động của nhiều quốc gia”, ông Hoan nói.

Phát biểu chào mừng hội thảo, bà Ingrid Christensen thay mặt ILO tại Việt Nam đánh giá cao tầm quan trọng của Hội thảo. Bà Ingrid Christensen cho biết, di cư lao động là vấn đề phức tạp, đặc biệt ở châu Á. Việc lao động di cư là lợi ích vô giá trong chuyển giao kỹ năng cho lao động, tuy nhiên, lao động Việt Nam, nhất là phụ nữ có nguy cơ bị tổn thương cũng như phải chịu một số hình thức vi phạm về lao động. Nghiên cứu khác nhau cũng chỉ ra lao động Việt Nam gặp khó khăn trong tiếp cận thông tin di cư an toàn; Lao động nữ là nhóm yếu thế nhất và có nguy cơ bị phân biệt đối xử, gặp khó khăn về ngôn ngữ, thiếu cơ hội đào tạo và những yêu tố khác. Những yếu tố đó ảnh hưởng đến việc làm bến vững của lao động Việt Nam.

Giám đốc Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế tại Việt Nam nhấn mạnh, ILO kêu gọi xây dựng chương trình nghị sự về di cư công bằng, góp phần đem lại cơ hội thực sự cho lao động có việc làm thỏa đáng; kêu gọi cho hoạt động di cư trở thành sự lựa chọn bằng cách tạo ra việc làm tốt tại các quốc gia, tôn trọng quyền của con người, tuyển dụng công bằng, tạo sân chơi bình đẳng cho lao động, thúc đẩy các hiệp định song phương nhằm đảm bảo hoạt động lao động di cư cho các quốc gia thành viên; thúc đẩy đối thoại xã hội với sự tham gia của bộ Lao động, Thương binh và xã hội và tổ chức công đoàn.

Trong phần tọa đàm của hội thảo, các đại biểu đã thảo luận về các nội dung: thực trạng và định hướng; Xây dựng quy hoạch, chiến lược công tác đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài; Việc hỗ trợ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động; thu phí của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Giải pháp chuyển đổi số; kinh nghiệm quốc tế; Công tác đào tạo nghề, giáo dục định hướng nâng cao chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài; Phát huy, khai thác, sử dụng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, tài chính của người lao động sau khi đi làm việc ở nước ngoài về nước; Đề xuất định hướng lãnh đạo đối với công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong tình hình mới. Hội thảo cũng làm rõ hơn những kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trong công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài những năm qua.

Phó Ban Kinh tế Trung ương Đỗ Ngọc An phát biểu tại hội thảo

Phát biểu kết luận Hội thảo, ông Đỗ Ngọc An cho biết, các cấp ủy Đảng trong thời gian qua đã tăng cường sự lãnh đạo, việc đưa lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt những kết quả nhất định. Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền trong việc đưa lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tăng lên; quản lý càng ngày càng chặt chẽ, khoa học hơn; chế tài đối với người lao động, doanh nghiệp và trách nhiệm của chính quyền địa phương đã được tăng lên. Lực lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng lên hàng năm, trong 3 năm gần đây 2019-2021 có giảm do dịch bệnh và các yếu tố khác nhưng nhìn chung giai đoạn 10 năm 2012 đến nay so với giai đoạn trước (1998-2012) tăng cả về số lượng và nâng lên về chất lượng. Mục tiêu đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và đóng góp một phần cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước cũng được các diễn giả nêu rất rõ.

Tuy nhiên, ông cũng cho rằng những mặt trái như: Tình trạng lao động ở lại, bỏ trốn, đến nhập cảnh nhưng không đến nơi làm việc hiện hữu ở nhiều nơi. Một số lao động bị lôi kéo, lợi dụng, lừa gạt hoặc một số vấn đề khác được các diễn giả nêu, ông An cũng bày tỏ đồng tình như: Công tác quản lý, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, trách nhiệm của các doanh nghiệp, mối quan hệ giữa người lao động với thân nhân ở trong nước, mối quan hệ giữa doanh nghiệp đưa lao động đi nước ngoài và doanh nghiệp sử dụng lao động ở nước ngoài. Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh về công tác quản lý người lao động sau khi kết thúc hợp đồng về nước cũng làm chưa chặt chẽ; Vấn đề đào tạo nghề, giáo dục định hướng, phí tuyển dụng, tình trạng cò mồi… vẫn cần phải khắc phục trong thời gian tới.

M.Loan