‘Vua chèo’ Trần Đình Ngôn
Nói đến tài năng, người ta thường nhắc đến yếu tố bẩm sinh tức là năng khiếu và truyền thống gia đình, cùng với sự tự rèn luyện, học hỏi, bồi dưỡng kiến thức. Ở Trần Đình Ngôn – người được mệnh danh là “vua chèo”, hội tụ đủ những yếu tố này.
Tôi nghe danh ông đã lâu, nhưng mãi đến năm 2009 - năm đánh dấu tôi thực sự trở lại với làng kịch - mới được trực tiếp gặp. Ấn tượng đầu tiên đó thật khó phai trong tôi. Đó là người đàn ông mảnh dẻ, sắp bước vào tuổi thất thập, nhưng dáng vẻ còn nhanh nhẹn.
Cặp mắt lanh lợi và khẩu ngữ của ông lộ ra sự hóm hỉnh, dân giã của người từng trải. Qua cuộc trò chuyện của anh em trong trại sáng tác tôi biết thêm về ông, một tác giả tài năng nhất nhì của sân khấu chèo Việt Nam.
Có lẽ về chèo, Trần Đình Ngôn chỉ đứng sau Tào Mạt - tác giả lừng danh của bộ ba kịch bản “Bài ca giữ nước”. Hiện nay Trần Đình Ngôn đang là cái bóng lớn phủ lên chiếu chèo Việt Nam bởi ông đang giữ những kỉ lục khó vượt của một tác giả sân khấu nói chung và một tác giả viết chèo nói riêng của nước ta.
Tính ở thời điểm hiện tại, ông đã viết 109 kịch bản dài cho sân khấu, trong đó tròn 100 kịch bản chèo của ông được dựng và xuất bản. Đặc biệt trong các hội diễn sân khấu chuyên nghiệp hơn 40 năm nay thì tên tác giả Trần Đình Ngôn dường như đã chiếm lĩnh và ngự trị với số lượng vở diễn và những giải thưởng được trao cho các vở diễn dựng theo kịch bản của ông.
Hội diễn chuyên nghiệp miền Bắc đầu tiên năm 1970, không có huy chương vàng thì hai vở chèo “Tầm vóc Đại Hồng” và “Người Dao xuống núi” cùng đoạt huy chương bạc. Hội diễn 1980 vở “Chiếc nón bài thơ” do đoàn Chèo Hải Phòng dựng đoạt huy chương vàng và Trần Đình Ngôn với vai trò đạo diễn vở được tặng giải thưởng đạo diễn xuất sắc. Hội diễn 1985 vở “Ngôi sao Hạ Long” của ông do Đoàn Chèo Quảng Ninh dựng đoạt huy chương bạc.
Và bắt đầu từ hội diễn 1995 tiếp theo là sự nở rộ. Mỗi hội diễn, hàng loạt kịch mục dự thi mang tên tác giả kịch bản Trần Đình Ngôn. Hội diễn năm 1995 ông có 4 vở dự thi, 2 vở đạt huy chương vàng, 2 vở đạt huy chương bạc.
Hội diễn năm 2009 ông có 5 kịch bản, trong đó vở diễn dựng theo kịch bản của ông đoạt giải Nhì (không có giải Nhất) cuộc thi kịch bản 1.000 năm Thăng Long “danh chiếm bảng vàng” do đoàn Chèo Bắc Giang dựng đoạt huy chương bạc. Hội diễn năm 2011 ông có 4 vở dự thi đoạt một huy chương vàng, một huy chương bạc.
Hội diễn năm 2013 trong đó có vở “Chuông ngân rừng trúc” đoạt huy chương vàng cùng với vở diễn “Chu Văn An - người thầy của muôn đời” của Nhà hát Chèo Quân đội dựng theo kịch bản “Thầy Chu” của kẻ viết bài này.
Đó là chưa kể hàng loạt vở diễn dựng theo kịch bản của Trần Đình Ngôn đoạt các giải huy chương vàng, huy chương bạc tại các Liên hoan Truyền hình toàn quốc như “Của hồi môn”, “Phùng Khắc Khoan”, “Quả cau vàng”... (huy chương vàng); “Hoa tuyết trinh”, “Người mài ngọc”... (huy chương bạc)... Sức hấp dẫn của kịch bản chèo Trần Đình Ngôn còn được ghi nhận khi không ít kịch bản của ông được nhiều đoàn cùng một lúc dàn dựng trong đó tiêu biểu vở “Chinh phụ hai chồng” có tới 16 đoàn dàn dựng.
Quê Trần Đình Ngôn là xã An Bình, huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương, trung tâm vùng Đồng bằng Bắc bộ. Cùng với Thái Bình là một trong những chiếc nôi của nghệ thuật chèo dân gian của Việt Nam. Vì vậy không phải ngẫu nhiên thầy lang Trần Đình Việt, thân sinh ra Trần Đình Ngôn lại rất thuộc các làn điệu chèo.
Chính vì nhiễm những làn điệu này từ bé nên ngay từ năm 15 tuổi, Trần Đình Ngôn đã viết ca cảnh chèo cho các bạn cùng lớp diễn trong lễ tổng kết niên học. Năm 1962, sau khi tốt nghiệp phổ thông ông gia nhập Đoàn Chèo Tả Ngạn (tiền thân của Đoàn Chèo Hải Phòng) với chức danh “giáo viên bổ túc văn hoá”.
Sinh ra từ đất chèo, lại được đắm mình trong không gian nghệ thuật của một đoàn chèo chuyên nghiệp nên chẳng bao lâu anh giáo viên bổ túc của Đoàn Chèo Tả Ngạn đã trở thành một tác giả trụ cột của đoàn.
Đó là sự tất yếu với Trần Đình Ngôn với năng khiếu bẩm sinh đã vừa học vừa sáng tác, cùng với sự kinh qua nhiều lớp, nhiều trại sáng tác tập huấn bồi dưỡng nghệ thuật viết kịch do Vụ Nghệ thuật, Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tổ chức do các nhà lý luận, sáng tác gạo cội của sân khấu Việt nam giảng dạy như Đình Quang, Nguyễn Đình Nghi…
Thêm vào đó còn có một yếu tố không thể thiếu để Trần Đình Ngôn trở thành một tác giả chèo vững vàng là sự ham đọc, ham tham khảo khi ông mày mò tìm đọc các công trình nghiên cứu về chèo của các vị giáo sư Trần Bảng, Hà Văn Cầu, Hoàng Kiều…
Nhưng nói đến Trần Đình Ngôn không chỉ nói đến lượng tác phẩm đồ sộ và khối lượng giải thưởng mà còn nói đến một tác giả ham học hỏi để vươn tới là một tác giả có trình độ học vấn hàng đầu của sân khấu Việt Nam.
Đầu tiên phải kể đến bước ngoặt lớn tác động đến con đường học vấn của Trần Đình Ngôn khi ông quyết định theo học tại chức khoa Văn - Trường Đại học Tổng hợp. Những năm tháng ông theo khoá học dưới sự giảng dạy của các nhà lý luận lớn như giáo sư Hoàng Xuân Nhị, Lê Đình Kị, Hà Minh Đức… đã trang bị cho ông khối một kiến thức văn học vững vàng để ông có thể tung hoành trong lĩnh vực sáng tác sau này.
Nhưng trước hết cũng là cái nền để khi ông tuy đã là một tác giả thành danh trên sân khấu ông vẫn bền bỉ nghiên cứu để thành tiến sĩ văn học vào năm 1996 với luận văn mang đề tài “Dân gian và bác học trong kịch bản chèo”. Chính sự nghiên cứu thành công đề tài này đã giúp cho Trần Đình Ngôn đủ sức tung hoành và sung sức trong lĩnh vực sáng tác sau này.
Một khía cạnh khác có thể cắt nghĩa thêm sự thành công của Trần Đình Ngôn trong sân khấu chèo là con đường hoan lộ của ông cũng gắn bó mật thiết với nghệ thuật chèo. Năm 1989 sau khi tốt nghiệp khoa Văn - Trường Đại học Tổng hợp, ông chuyển về công tác tại Tạp chí Sân khấu và Nhà xuất bản Sân Khấu. Trong 9 năm làm công tác biên tập, phóng viên chuyên ngành sân khấu thêm một lần mang lại những kiến thức, kinh nghiệm sân khấu, kinh nghiệm sáng tác kịch bản. Ba năm sau năm 1996 khi thành công với đề tài tốt nghiệp tiến sĩ về nghệ thuật chèo, ông trở thành giảng viên Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội cùng vai trò Viện trưởng Viện Sân khấu. Ở vị trí kinh viện này, Trần Đình Ngôn dường như có điều kiện để chiêm nghiệm hơn nghệ thuật chèo từ góc độ khoa học.
Trò chuyện với ông, tôi càng hiểu trong con người ông từ sự hòa quyện đến nhuần nhuyễn một con người chèo dân gian với tất cả vốn liếng của cha ông, quê hương truyền qua với một vị tiến sĩ văn học, một nhà nghiên cứu nghệ thuật chèo.
Trần Đình Ngôn là tác giả hiếm hoi có thể thuộc và hát khá hay, chuẩn 100 làn điệu trên tổng số hơn 150 làn điệu của nghệ thuật chèo truyền thống. Điều đó đã tạo điều kiện cho ông có thể bộc lộ, mô tả phù hợp các loại tâm trạng của nhân vật, cũng như mô tả đầy đủ tình huống của câu chuyện trong kịch bản. Bên cạnh đó ông cũng là tác giả của những công trình nghiên cứu công phu về chèo như công trình về “Tào Mạt và chèo”, về “Những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật chèo quần chúng”, về “Nghệ thuật biểu diễn chèo truyền thống”…
Ngồi nói chuyện với ông, tôi tận hưởng đến cùng chất chèo cổ với những nhịp nội nhịp ngoại kì diệu cùng tiếng phách giòn tan mà chỉ có người am hiểu mới diễn đạt được. Cũng qua ông tôi càng hiểu thêm sự gián cách của chèo khác sự gián cách của Bertolt Brecht – tác giả kịch vĩ đại của Đức giữa thế kỉ 20 như thế nào. Hiểu thêm nhân vật hề và các nhân vật hài trong chèo giống và khác nhau ra sao.
Trần Đình Ngôn hấp háy đôi mắt đã chớm bạc mầu nhưng vẫn toát lên chất “quái” của người “hắt hơi cũng ra chèo” nói với tôi một câu ông tâm đắc: “Lâu nay người ta thường đồng nhất sự tồn tại của chèo với đơn vị nghệ thuật mang tên đoàn chèo, nhà hát chèo.
Thực ra để tồn tại thì đơn vị nghệ thuật đó phải dàn dựng cả những vở chưa hẳn là chèo và coi đó là giải pháp tình thế. Những tác phẩm này cho dù vẫn lành mạnh, có sức hấp dẫn với khán giả, có vở còn đạt doanh thu cao nhưng không nên ngộ nhận những vở diễn đó là cách đi của chèo vì xét về mặt thể loại những tác phẩm đó không đạt tiêu chuẩn căn bản của chèo…”
Tôi nhớ hai tháng trước trong một cuộc hội thảo về chèo, ông kiên quyết để bảo vệ quan điểm: “Chèo thì phải ra chèo như cha ông ta đã dày công xây dựng. Cải tiến, đổi mới gì cũng phải tôn trọng những nguyên tắc cơ bản đã làm nên chèo”.
Và đầu tháng 8 năm nay, Nhà hát Chèo Hải Dương đã dựng kịch bản “Duyên nợ với chèo” của Trần Đình Ngôn viết về NSND Trịnh Thị Lan, nghệ danh chèo Cả Tam. Hình như trong lý luận của vị tiến sĩ cũng như trong tác phẩm của kịch tác gia chèo Trần Đình Ngôn, là hai mặt quy chiếu cho một cách nghĩ chuẩn mực về chèo. Tôi thực sự khâm phục trước sức làm việc và sáng tạo của Trần Đình Ngôn khi ông đã vào tuổi 82.