Nghị quyết 54 giúp vùng đồng bằng sông Hồng bứt phá nhanh hơn
Kinh tế vùng tăng trưởng khá, bình quân giai đoạn 2005 – 2020 đạt 7,94%/năm, cao hơn bình quân cả nước với chất lượng được cải thiện dựa nhiều hơn vào năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP); quy mô kinh tế tăng nhanh, năm 2020 đạt 2,37 triệu tỷ đồng, chiếm 29,4% tổng GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/người/năm, gấp 1,3 lần bình quân cả nước.
Đó là một số con số ấn tượng của vùng đồng bằng sông Hồng được nêu trong dự thảo báo cáo tổng kết Nghị quyết 54-NQ/TW mà Phó Ban Kinh tế Trung ương, Phó Ban Chỉ đạo Nguyễn Duy Hưng nêu tại cuộc hội nghị tổng kết sáng 14/9, tại Hải Phòng.
Tại Hội nghị, ông Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng ban chỉ đạo báo cáo tóm tắt Dự thảo Báo cáo Tổng kết Nghị quyết, theo đó, thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW và Kết luận 13-KL/TW của Bộ Chính trị, những năm qua, các cấp, các ngành nhất là các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng, khẳng định vai trò là vùng kinh tế động lực, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. Một số địa phương phát triển bứt phá, trở thành điểm sáng trong vùng và cả nước.
Kinh tế vùng tăng trưởng khá, bình quân giai đoạn 2005 – 2020 đạt 7,94%/năm, cao hơn bình quân cả nước với chất lượng được cải thiện dựa nhiều hơn vào năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP); quy mô kinh tế tăng nhanh, năm 2020 đạt 2,37 triệu tỷ đồng, chiếm 29,4% tổng GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 103,6 triệu đồng/người/năm, gấp 1,3 lần bình quân cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực với vai trò trụ cột của các khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) tăng mạnh, chiếm 31,4% tổng vốn FDI của toàn quốc. Đô thị phát triển nhanh, tỷ lệ đô thị hóa trên 41%.
Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt thành tựu nổi bật, 99,2% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Kinh tế biển phát triển khá, đặc biệt Hải Phòng và Quảng Ninh dần trở thành trung tâm kinh tế biển lớn. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ phát triển mạnh mẽ, đi đầu trong thực hiện các đột phá chiến lược và đổi mới mô hình tăng trưởng.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư và phát triển khá đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng khu, cụm công nghiệp; phát huy tốt vai trò của các hành lang, vành đai kinh tế. Quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường được chú trọng; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội được quan tâm phát triển; nhiều giá trị văn hóa được bảo tồn và phát huy; chất lượng giáo dục - đào tạo và chăm sóc sức khỏe người dân được nâng lên rõ rệt. Chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cơ bản đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ.
Khoa học - công nghệ được ứng dụng mạnh mẽ, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong vùng được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh xuống còn 0,86%. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng cao. Trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Những thành tựu đạt được đã khẳng định Nghị quyết 54-NQ/TW là chủ trương đúng đắn của Đảng và đã thực sự đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, báo cáo cũng nêu rõ, về kinh tế - xã hội vùng còn những hạn chế, bất cập. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; phát triển không đồng đều các địa phương trong vùng. Chất lượng tăng trưởng chưa cao, vẫn phụ thuộc nhiều vào vốn và lao động. Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế còn chậm, sản phẩm chủ yếu ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị.
Quy hoạch không gian phát triển còn bất cập; tình trạng quy hoạch “treo” khá phổ biến; các khu công nghiệp thiếu liên kết, chưa hình thành được các cụm liên kết ngành. Hệ thống đô thị phát triển chưa hợp lý, thiếu kết nối, chưa bền vững, quy hoạch đô thị có nhiều hạn chế; việc cải tạo chung cư cũ và di dời các trường đại học, bệnh viện ra khỏi trung tâm Hà Nội gặp nhiều khó khăn.
Đầu tư còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, nhiều dự án kéo dài, gây lãng phí nguồn lực. Khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực cho phát triển. Quản lý đất đai, tài nguyên còn nhiều hạn chế; tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng phức tạp. Phát triển văn hoá - xã hội nhiều mặt còn hạn chế; chất lượng lao động cải thiện chậm; chất lượng dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân chưa đồng đều ở các địa phương. Liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong vùng chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. An ninh trật tự ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Nhiệm vụ phát triển thành phố Nam Định thành đô thị hạt nhân của tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng và xây dựng Khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn, Quảng Ninh chưa hoàn thành…
Trước đó, phát biểu chào mừng Hội nghị, ông Trần Lưu Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hải Phòng khẳng định, cách đây 17 năm, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị Quyết 54-NQ/TW cho các tỉnh thành vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là Nghị quyết rất quan trọng để các tỉnh, thành, trong đó có thành phố Hải Phòng có cơ sở để tích cực triển khai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trong suốt thời gian qua.
Từ khi có Nghị quyết 54, Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng luôn xác định và thống nhất quan điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo: Đó là xây dựng, phát triển thành phố không chỉ cho Hải Phòng mà còn cho khu vực và cả nước; đồng thời, định hướng xây dựng, phát triển Hải Phòng không chỉ cho nội tại, địa giới hành chính Thành phố mà phải đặt trong mối liên kết, tạo sự lan tỏa tới các tỉnh, thành phố lân cận.Ông Trần Lưu Quang cũng bày tỏ, thông qua Hội nghị Tổng kết Nghị quyết này, Hải Phòng sẽ học tập được nhiều kinh nghiệm có giá trị, nhằm góp phần xây dựng chủ trương, định hướng mới để phát triển mạnh mẽ hơn nữa cho Hải Phòng cũng như các địa phương khác và cho cả vùng.