Đối thoại với doanh nghiệp Nhật Bản về chính sách Bảo hiểm xã hội
Hiện có hơn 2.100 doanh nghiệp FDI Nhật Bản tại Việt Nam với gần 525.000 lao động tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH). Số thu BHXH của khối doanh nghiệp này chiếm 12,9% tổng thu của khối doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.
Đây là thông tin được ngành BHXH Việt Nam cho biết tại hội nghị đối thoại với các doanh nghiệp FDI Nhật Bản về thực hiện chính sách BHXH, BHYT
Gần 525.000 lao động doanh nghiệp FDI Nhật Bản tham gia BHXH
Phát biểu tại hội nghị, ông Sasaki Shohei - Bí thư thứ nhất, Đại sứ quán Nhật Bản chia sẻ, Nhật Bản luôn coi trọng sự đầu tư vào thị trường của Việt Nam trên cơ sở mối quan hệ ngoại giao của 2 nước ngày càng phát triển. Hiện nay, số doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam ngày càng tăng.
Chỉ tính riêng số lượng hội viên của Hiệp hội DN Nhật Bản tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh đã có hơn 2.000 doanh nghiệp. Đây là con số rất ấn tượng về số lượng doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào một quốc gia, cho thấy Việt Nam là một thị trường đầu tư hấp dẫn, thân thiện.
“Trong quá trình đầu tư tại Việt Nam, các doanh nghiệp Nhật Bản luôn quan tâm đến việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động (NLĐ). Đặc biệt khi Nghị định số 143 của Chính phủ Việt Nam có quy định NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, các doanh nghiệp Nhật Bản luôn ý thức rõ hơn về quyền, trách nhiệm tham gia cho NLĐ trong DN của mình”, ông Sasaki Shohei nhấn mạnh.
Báo cáo của ngành BHXH Việt Nam cho thấy, ước đến hết tháng 9/2022, cả nước có khoảng 87,5 triệu người dân Việt Nam tham gia BHYT, đạt 91% dân số; 17,2 triệu người tham gia BHXH (bao gồm NLĐ làm việc tại doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI), đạt 33% lực lượng lao động. Tính riêng khối doanh nghiệp FDI Nhật Bản tại Việt Nam, có hơn 2.100 doanh nghiệp với gần 525 nghìn lao động tham gia BHXH, trong đó có khoảng 522,9 nghìn lao động là người Việt Nam và 2,1 nghìn lao động là người nước ngoài. Số thu BHXH của khối doanh nghiệp FDI Nhật Bản tại Việt Nam chiếm 12,9% tổng thu của khối doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.
Công tác giải quyết chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho NLĐ nói chung và NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp FDI luôn được ngành BHXH Việt Nam đảm bảo, kịp thời, đầy đủ, giúp NLĐ yên tâm sản xuất, qua đó góp phần thúc đẩy hoạt động phát triển của mỗi doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh khó khăn do tác động bởi dịch Covid-19.
Tối ưu hóa quyền lợi cho người lao động
Chia sẻ tại Hội nghị, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Đào Việt Ánh cho biết, Luật BHXH năm 2014 và Nghị định số 143 của Chính phủ Việt Nam có quy định NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, từ ngày 01/01/2022, ràng buộc trách nhiệm đóng góp của doanh nghiệp và NLĐ. Đây là mối quan tâm chung của nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong đó có doanh nghiệp FDI Nhật Bản.
Để tránh việc đóng song trùng BHXH, tối ưu hóa quyền lợi cho NLĐ, hai nước đang tiến hành các thủ tục trao đổi, cập nhật thông tin, lộ trình chuẩn bị cho việc đàm phán Hiệp định song phương về BHXH giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản.
Tại hội nghị hai bên đã cùng trao đổi, thảo luận và đề xuất các vấn đề liên quan khâu tổ chức, thực hiện, với một số nội dung chính như: việc đảm bảo quyền an sinh xã hội của lao động Nhật bản tại Việt Nam theo Nghị định số 143; các TTHC liên quan đến cấp giấy phép hành nghề của lao động phái cử, khám chữa bệnh, giải quyết chế độ cho lao động nước ngoài có thời gian làm việc tại Việt Nam, tăng giảm mức đóng…
Theo đó, với các nội dung liên quan trong thẩm quyền của ngành BHXH Việt Nam, BHXH Việt Nam sẽ tiếp thu các ý kiến tham gia, đề xuất, tiếp tục hoàn thiện các quy trình thủ tục nội bộ nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các DN FDI; với các nội dung ngoài thẩm quyền của Ngành, BHXH Việt Nam sẽ tổng hợp các ý kiến để gửi các cơ quan hữu quan của Chính phủ Việt Nam xem xét, giải quyết;… nhằm mục tiêu đảm bảo quyền lợi BHXH, BHYT cho NLĐ khối FDI tại Việt Nam ngày càng tốt hơn, góp phần thiết thiệt vào quá trình phát triển của các DN FDI và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.