Hồ Xuân Hương Danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại

TRỌNG ĐĂNG 13/12/2022 08:48

Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ nổi tiếng và tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa cuối thế kỷ XIX. Bà là một trong 6 danh nhân được UNESCO vinh danh cùng với Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Nguyễn Du, Chu Văn An, Nguyễn Đình Chiểu.

Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam Christian Manhart trao Nghị quyết vinh danh Danh nhân Hồ Xuân Hương của UNESCO cho Việt Nam.

Nhà thơ mang tầm vóc một thi hào

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương sinh năm 1772, mất năm 1822. Bà là con gái cụ đồ Hồ Phi Diễn (1704 - 1786), người làng Quỳnh Đôi, nay là xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Mang trong mình dòng máu xứ Nghệ, nhưng Hồ Xuân Hương lớn lên ở đất Thăng Long nên trong con người bà có sự hội tụ nét tinh hoa của hai vùng văn hóa lớn. Chất khảng khái, cương trực của xứ Nghệ hòa thiệp với chất mềm mại, tinh tế của Kinh Bắc, để rồi kết lại, tỏa sáng một nữ sĩ Hồ Xuân Hương đầy cá tính, sâu sắc và nhân văn.

Ngày nay, tên của nữ sĩ Hồ Xuân Hương được đặt cho các ngôi trường, tuyến phố trang trọng, danh lam, thắng cảnh đẹp, giải thưởng văn học, nghệ thuật ở tỉnh Nghệ An và một số địa phương trong cả nước...

Nghị quyết 41C/15 ngày 23/11/2021 của Đại hội đồng UNESCO thống nhất vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 250 năm năm sinh 200 năm mất của Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772 - 1822) - "Bà Chúa thơ Nôm" của Việt Nam đã khẳng định sự đánh giá cao của quốc tế đối với những giá trị về văn học nghệ thuật và đặc biệt là tư tưởng về bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, xứng tầm là một Danh nhân văn hóa nhân loại, nhà thơ mang tầm vóc một thi hào.

Tại Lễ vinh danh và kỷ niệm 250 năm năm sinh (1772-2022), 200 năm năm mất (1822-2022) nữ sĩ Hồ Xuân Hương do tỉnh Nghệ An phối hợp với Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam tổ chức tại TP Vinh hôm 3/12, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, Hồ Xuân Hương là bậc nữ sĩ kỳ tài, là một hiện tượng đặc sắc của nền văn học trung đại Việt Nam. Thơ của bà ẩn chứa nhiều vấn đề sâu sắc, phức tạp, nhiều đột phá và rất mới mẻ; vừa đậm chất phong tình, vừa mang tinh thần phản kháng mạnh mẽ, thể hiện một tư tưởng nhân văn, nhân bản mang tính nhân loại sâu sắc với hạt nhân là đấu tranh đòi quyền sống, quyền yêu đương, hạnh phúc cho con người, trước hết là người phụ nữ.

"Bà Chúa thơ Nôm" sống trong bối cảnh lịch sử đất nước nhiều biến động, vai trò nữ giới không được đề cao. Do đó, tiếng nói vang dội nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói đấu tranh đòi nữ quyền; dám trực diện đấu tranh cho quyền của phụ nữ, phản kháng quyết liệt và chia sẻ tận cùng với những số phận bất hạnh của nữ giới trong xã hội phong kiến. Nhưng thơ của bà vẫn ẩn chứa bên trong sự dịu dàng, đoan trang, tinh tế nhưng mạnh mẽ và kiên cường của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

Nhấn mạnh, Hồ Xuân Hương - một danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại, là nhà thơ mang tầm vóc một thi hào, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao UNESCO đã rất chính xác khi trao sứ mệnh vinh quang cho nữ sĩ Hồ Xuân Hương: Sứ mệnh truyền cảm hứng và lan tỏa ảnh hưởng tích cực đến mọi người trên thế giới.

Tự hào, tôn vinh những cống hiến to lớn của bà đối với văn hóa Việt Nam và văn hóa nhân loại, Chủ tịch nước cho rằng, đó cũng là để tìm trong di sản của bà những kinh nghiệm và bài học quý báu cho sự phát triển của địa phương và đất nước trong tương lai.

Chúng ta tôn vinh nữ sĩ Hồ Xuân Hương chính là tôn vinh phẩm hạnh và trí tuệ của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đồng thời, chúng ta cũng thấy được những nỗ lực, phấn đấu của Đảng và Nhà nước ta cho quyền lợi và sự công bằng đối với người phụ nữ, thông qua việc phát huy sự đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập, tự do và xây dựng đất nước, cũng như những vị trí quan trọng của người phụ nữ Việt Nam trong đội ngũ các nhà lãnh đạo đất nước, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức ở mọi thế hệ.

Việc UNESCO tôn vinh những giá trị và ý nghĩa nhân văn cao đẹp, trường tồn trong tư tưởng, nhân cách Hồ Xuân Hương cũng chính là tôn vinh nét đẹp trong tâm hồn, trí tuệ, nhân văn, bác ái của con người Việt Nam. Điều này thêm lần nữa khẳng định, những giá trị tốt đẹp trong cốt cách con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam đã và đang hòa chung dòng chảy văn hóa nhân loại cũng như làm giàu hơn, phong phú hơn cho văn hóa thế giới.

Một hiện tượng phi thường

Trải qua hơn 200 năm xuất hiện trên văn đàn, Hồ Xuân Hương - một tài năng văn học gắn với nhiều bí ẩn, đã không ngừng thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng và giới nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước. Phong cách thơ Hồ Xuân Hương khoáng đạt, sáng tạo, độc đáo bậc thầy, với hệ thống các phương thức, phương tiện nghệ thuật được vận dụng và thực thi đầy linh hoạt, biến hóa, nhiều bài đạt tầm kiệt tác, xứng đáng là đỉnh cao của thơ Nôm (tiếng Việt) và danh xưng “Bà Chúa thơ Nôm” của Việt Nam.

Thông qua các tác phẩm của mình, Hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đấu tranh đòi quyền sống cho con người, trước hết là nữ quyền và quyền bình đẳng. Thơ của bà luôn mang đến sự cuốn hút mạnh mẽ cho độc giả, các nhà nghiên cứu, nhà phê bình danh tiếng trong nước và quốc tế. Đến nay, thơ Hồ Xuân Hương đã được dịch ra 13 thứ tiếng khác nhau trên thế giới, được đưa vào giảng dạy, nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài. Con người và thơ Hồ Xuân Hương đã đi vào văn thơ, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, hội họa, được dân gian hóa, được nhân dân gìn giữ và lưu truyền.

Kỷ niệm 250 năm năm sinh, 200 năm năm mất nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là dịp để các nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa, văn học nhìn nhận, đánh giá lại sự nghiệp thơ văn của "Bà Chúa thơ Nôm", qua đó nhìn nhận về vị thế, tầm vóc và lịch sử tiếp nhận, chuyển ngữ (dịch thuật) Hồ Xuân Hương; vấn đề thân thế, quê hương và thời đại Hồ Xuân Hương; Hồ Xuân Hương trong các mối liên hệ với văn hóa dân tộc, văn hóa khu vực và văn hóa nhân loại; đặc sắc hiện tượng văn hóa Hồ Xuân Hương; những vấn đề về thi pháp, phong cách nghệ thuật và sức hấp dẫn, lan toả của thơ Hồ Xuân Hương; vấn đề tiếp nhận và phát huy giá trị di sản của Danh nhân Hồ Xuân Hương trong bối cảnh hiện nay.

Theo PGS.TS Biện Minh Điền, giảng viên cao cấp Trường Đại học Vinh, Hồ Xuân Hương qua các thi tập đa dạng, độc đáo, tài hoa của bà như: "Thơ nôm truyền tụng" (khoảng trên 100 bài), "Lưu hương ký", "Hương đình cổ nguyệt thi tập", "Đồ Sơn bát vịnh", "Đề Vịnh Hạ Long"… đã khẳng định tài năng thơ ca và cái tôi rất riêng của nữ sĩ.

Thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một tư tưởng nhân văn, nhân bản mang tính nhân loại sâu sắc với hạt nhân là đấu tranh đòi quyền sống, quyền yêu đương, hạnh phúc cho con người, trước hết là người phụ nữ.

Tiếng nói vang dội nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói đấu tranh đòi nữ quyền (quyền bình đẳng, quyền được yêu thương, hạnh phúc, quyền được công khai hiện diện trong cuộc sống) với tất cả những gì mà tạo hóa ban cho họ. Điều này được thể hiện trong các bài thơ của bà như: "Bánh trôi nước", "Thiếu nữ ngủ ngày", "Đèo Ba Dội", "Động Hương Tích", "Vịnh cái quạt", "Dệt cửi", "Đánh đu".

Cùng với đó là tiếng nói phê phán mạnh mẽ các thế lực (chế độ phong kiến, giáo lý Nho giáo, các giới, loại người "phàm phu, tục tử") đã tạo ra những ràng buộc vô lý đối với con người, tạo ra sự bất bình đẳng giới giữa nam và nữ, tạo ra những lề thói, hủ tục cản trở sự tiến bộ. Bà cũng phê phán không khoan nhượng tệ tham nhũng, giả dối, lọc lừa của mọi hạng người vô liêm sỉ trong xã hội…

GS.TS Trần Đình Sử (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) đánh giá, thơ Hồ Xuân Hương rất đa dạng, nhiều loại, mà thơ truyền tụng chỉ là một loại trong đó. Thơ Hồ Xuân Hương trong tập "Lưu hương ký" rõ ràng là thơ trữ tình đặc sắc cả chữ Hán và chữ Nôm thể hiện một tư tưởng nhân văn, nhân bản mang tính nhân loại sâu sắc với hạt nhân là đấu tranh đòi quyền sống cho con người, một quan niệm văn hóa, thẩm mỹ độc đáo chưa từng có về các nhu cầu cơ bản của con người dưới chế độ phong kiến với tư tưởng Nho giáo kiềm tỏa nặng nề.

Di sản của Hồ Xuân không chỉ là thơ ca, mà còn là hệ ứng xử, tinh thần, ý thức vì một sự tiến bộ tốt đẹp. Hồ Xuân Hương không chỉ có đấu tranh, bảo vệ mà còn có ý thức cảnh báo, phê phán, chống lại, phủ định những gì ngăn cản sự tiến bộ của con người. Di sản của bà để lại có một sức sống mãnh liệt, lan tỏa, truyền cảm hứng đến nhiều dân tộc, nhiều quốc gia.

Là người dịch thơ Hồ Xuân Hương ra tiếng Slovakia, bà Eva Antoshchenko Muckova - nhà thơ, dịch giả nước Cộng hòa Slovakia cho biết, trong những câu thơ của bà có âm điệu gợi tình, đầy châm biếm và mỉa mai; hay trong những bài thơ trữ tình, nữ thi sĩ đã để lại một kho tàng văn học cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX thăng hoa, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới.

Còn bà Lady Borton - nhà văn, nhà nghiên cứu, dịch giả đến từ nước Mỹ cho rằng, Hồ Xuân Hương là một hiện tượng khác thường, phi thường. Bà là một hiện tượng độc nhất vô nhị. Nhưng bà không đơn độc vì cuộc đời và sự nghiệp thi ca của bà hẳn đã neo vào dòng phả hệ những nữ thi sĩ Việt Nam tiêu biểu như là những người thầy.

Với tấm lòng yêu mến, tâm huyết với việc tôn vinh và bảo vệ, phát huy di sản văn hóa gắn với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, sự hiểu biết uyên thâm, trách nhiệm cao của các nhà khoa học, các nhà quản lý sẽ là sự tổng hợp, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc về tầm vóc nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong lịch sử văn học Việt Nam và thế giới.

TRỌNG ĐĂNG