Tiếp tục kiềm chế lạm phát
Theo các chuyên gia, mặc dù áp lực lạm phát được đánh giá là lớn, giá cả tăng cao tác động đến đời sống của người dân, tuy nhiên, so với tình hình chung của nhiều nước trên thế giới, Việt Nam đang kiểm soát tốt lạm phát.
Lạm phát chịu nhiều tác động
Theo phân tích của Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), từ nay đến cuối năm có nhiều yếu tố đan xen làm tăng, giảm áp lực lên mặt bằng giá. Chẳng hạn giá năng lượng và các vật tư chiến lược được dự báo vẫn còn nhiều biến động phức tạp.
Căn cứ diễn biến giá dầu thô và giá dầu thành phẩm thế giới, Bộ Công thương dự báo giá bình quân dầu thô thế giới trong quý II sẽ dao động ở mức 85 – 95 USD/thùng, tương ứng dự báo giá thành phẩm các mặt hàng xăng dầu sẽ ở mức 90 – 100 USD/thùng đối với các mặt hàng xăng, dầu diesel, mức này giảm khoảng 26,15 - 39,39% so với cùng kỳ năm 2022.
Khi giá xăng giảm, sẽ hạn chế được đà tăng của giá cả hàng hoá góp phần kiềm chế lạm phát. Ngoài ra cũng còn một số yếu tố giảm áp lực lên mặt bằng giá như nguồn cung các mặt hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm trên thị trường hiện vẫn dồi dào. Triển vọng kinh tế thế giới chậm lại và lạm phát toàn cầu có thể hạ nhiệt trong năm 2023 cũng giúp Việt Nam giảm bớt áp lực lạm phát; đồng thời, giúp cải thiện yếu tố tâm lý, kỳ vọng, hỗ trợ kiểm soát lạm phát năm 2023…
Tuy nhiên, điều đáng lưu tâm là năm 2023 các dịch vụ liên quan đến giáo dục, điện... đến kỳ phải điều chỉnh, tác động đến lạm phát rất lớn. Tổng cục Thống kê ước tính nhóm dịch vụ giáo dục sẽ làm CPI năm 2023 tăng khoảng 0,82 - 1,09%; giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh thuộc nhóm dịch vụ sự nghiệp công thực hiện lộ trình thị trường trong năm 2023 ước làm CPI chung tăng khoảng 0,16 - 0,25%; giá dịch vụ vận chuyển hàng không ước tác động đến chỉ số CPI 2023 khoảng 0,07%. Bộ Tài chính dự báo CPI bình quân năm 2023 tăng trong khoảng 3,9 - 4,8%.
Đảm bảo nguồn cung các mặt hàng thiết yếu
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long đưa ra dự báo, CPI bình quân năm 2023 sẽ ở mức 4 - 4,5% (từ mức 3,15% năm 2022) do có độ trễ vì nhập khẩu nhiều, lượng cung tiền lớn hơn theo thời vụ cuối năm 2022 và năm tới cũng là thời điểm phải chấp nhận tăng một số mặt hàng do nhà nước quản lý (lương cơ bản, giá điện, y tế, giáo dục...).
Theo ông Long, trước đó nhiều ý kiến cho rằng lạm phát của Việt Nam trong năm 2023 có thể vượt qua ngưỡng 4,5%. Lý do chính là vì độ trễ của gói phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và lạm phát ở các nền kinh tế đối tác quan trọng có thể vẫn ở mức cao trong năm tới. Tuy nhiên, nếu Chính phủ kiên quyết thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát thì lạm phát kỳ vọng sẽ ở mức 4%.
Theo nhìn nhận của giới chuyên gia, về tổng thể, áp lực lạm phát tại Việt Nam trong năm 2023 sẽ không quá lớn. Lý do là bởi, NHNN đã chủ động thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng trong nửa sau năm 2022. Áp lực về tỷ giá cũng đã giảm đáng kể từ cuối năm 2022. Tính từ cuối năm 2021 đến cuối năm 2022, VND chỉ giảm giá khoảng 3,7% so với USD. Nếu xu hướng giảm giá của đồng USD tiếp tục được duy trì, tỷ giá USD/VND trong năm 2023 sẽ được NHNN giữ ổn định để kiểm soát lạm phát và hạ lãi suất nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu đang gia tăng cùng với chính sách thắt chặt tiền tệ tại các nước phát triển. Điều này tác động đến lạm phát tại Việt Nam theo 2 kênh, một mặt, tổng cầu đối với hàng hóa của Việt Nam sẽ tăng trưởng chậm lại; mặt khác, nguy cơ suy thoái toàn cầu sẽ gây áp lực giảm giá hàng hóa cơ bản trên thế giới (bao gồm cả giá dầu).
Như vậy, các áp lực đối với lạm phát từ các biến số như tiền tệ, tỷ giá hay giá nhiên, nguyên vật liệu nhiều khả năng đã đạt đỉnh trong năm 2022 và sẽ giảm trong năm 2023. Song không vì vậy mà chủ quan.
Nhận định về vấn đề này, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho rằng, hiện tại vẫn phải duy trì việc tăng lãi suất để tiếp tục kiềm chế lạm phát. Trong đó, cần lưu ý đến 3 giải pháp quan trọng là quản lý đầu vào giá cả để không bị tác động lớn; cân đối dòng tiền, hàng hóa, đảm bảo an sinh xã hội; truyền thông hợp lý, nhằm đưa thông tin kịp thời, minh bạch, tạo sự đồng thuận trong dư luận đối với công tác điều hành giá của Chính phủ, ổn định tâm lý người tiêu dùng...
Để đảm bảo lạm phát nằm trong vùng mục tiêu, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cần chuẩn bị đầy đủ nguồn hàng nhằm đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân, nhất là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu; tăng cường sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước dần thay thế nguồn nhập khẩu.
"Đối với các mặt hàng nhà nước quản lý, các dịch vụ công đang triển khai lộ trình thị trường, các bộ, ngành theo chức năng nhiệm vụ được giao chủ động đề xuất các phương án, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, đánh giá kỹ tác động đối với kinh tế - xã hội, mặt bằng giá, để chủ động có phương án điều chỉnh giá hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh giá phù hợp với diễn biến, mặt hàng giá thị trường" - Phó Thủ tướng lưu ý.
Đối với chính sách tài khóa và tiền tệ, điều hành linh hoạt, chủ động; xây dựng kịch bản, các bộ, ngành cần rà soát số liệu, dự báo chính xác số liệu đầu vào để xây dựng các kịch bản từ đó có giải pháp điều hành giá phù hợp, nhất là các mặt hàng quan trọng, thiết yếu như: xăng dầu, điện, giá dịch vụ y tế, giáo dục…
Trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp, phối hợp với chính sách tài khóa và tiền tệ, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra.
Để đảm bảo lạm phát nằm trong vùng mục tiêu, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cần chuẩn bị đầy đủ nguồn hàng nhằm đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân, nhất là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu; tăng cường sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước dần thay thế nguồn nhập khẩu.