Làm giàu từ di sản
Các di sản thế giới ở Việt Nam đã từng có thời điểm đón trên 18,2 triệu lượt khách đến tham quan, đạt 1.800 tỷ đồng. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, ở một số địa phương sở hữu danh hiệu vẫn đang trăn trở trước những thách thức giữa bảo tồn và phát triển. Vấn đề đặt ra là chỉ khi cân bằng được bài toán bảo tồn và phát triển, các danh hiệu mới thực sự trở thành cú hích cho sự phát triển bền vững.
Những hình mẫu tiêu biểu
Sau 9 năm, Quần thể danh thắng Tràng An - Ninh Bình được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, công tác quản lý, bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị di sản đã được tỉnh Ninh Bình thực hiện nghiêm theo Công ước Di sản thế giới và các quy định của pháp luật Việt Nam, thu được những kết quả tích cực. Các khu, điểm trong khu di sản đã thực sự đóng vai trò là hạt nhân, thúc đẩy phát triển du lịch và các ngành dịch vụ. Người dân được hưởng lợi từ di sản, tích cực tham gia bảo vệ di sản. Tràng An trở thành hình mẫu tiêu biểu trong quản lý và phát huy giá trị di sản, phục vụ phát triển bền vững tại Việt Nam.
Cùng với Ninh Bình, hơn 170 hạng mục công trình thuộc hệ thống Cố đô Huế được bảo tồn, tu bổ sau 30 năm kể từ khi được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Với 5 danh hiệu UNESCO khác, Huế tự tin khẳng định thương hiệu thành phố di sản. Bên cạnh đó, phố cổ Hội An, di sản đô thị đi kèm phát triển du lịch, dịch vụ chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế của thành phố. Người dân hưởng lợi từ giá trị của danh hiệu. Hay mô hình phát triển Công viên địa chất toàn cầu gắn với phát triển du lịch xanh, sạch và bền vững tại Cao Bằng, Hà Giang, Đắk Nông đã góp phần trong việc bảo tồn di sản văn hóa địa phương và gắn với các dự án khách sạn sinh thái, các hình thức kinh doanh, hợp tác xã sản xuất… Có thể nói, trên đây là những hình mẫu tiêu biểu trong phát triển bền vững di sản tại Việt Nam được UNESCO đánh giá cao.
Tính đến tháng 5/2023, Việt Nam đã có 57 danh hiệu UNESCO. Các danh hiệu của UNESCO đã đem lại nhiều lợi ích to lớn cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cộng đồng, phục vụ phát triển bền vững và bao trùm tại Việt Nam. Bằng chứng là các di sản văn hóa của Việt Nam sau khi được UNESCO công nhận đã trở thành những điểm đến du lịch hấp dẫn, tạo nên thương hiệu cho các địa phương có di sản, góp phần không nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng nêu ví dụ trước thời điểm dịch Covid-19 bùng phát, các di sản thế giới ở Việt Nam đã đón hơn 18,2 triệu lượt khách đến tham quan, tìm hiểu, trải nghiệm, với tổng doanh thu từ vé tham quan, dịch vụ đạt 1.800 tỷ đồng. Hay tháng 4/2023, trong khuôn khổ Lễ hội Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ đã thu hút khoảng 8 triệu du khách… Những dẫn chứng cho thấy di sản văn hóa ngày càng thể hiện rõ là nguồn lợi làm giàu của quốc gia.
Dù vậy, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Kim Ngọc nêu thực trạng: Ở một số địa phương sở hữu danh hiệu vẫn đang trăn trở trước những thách thức giữa bảo tồn và phát triển. Phát triển kinh tế nhiều lúc không khớp nhịp với bảo tồn và phát huy giá trị danh hiệu UNESCO. Nhận thức về di sản, bảo vệ môi trường, gắn việc bảo tồn di sản văn hóa với phát triển bền vững chưa thực sự thấm sâu vào hành động của các nhà quản lý, doanh nghiệp và người dân, lâu dài tiềm ẩn nhiều nguy cơ bởi các tác động tiêu cực từ thiên tai, biến đổi khí hậu luôn hiện hữu. Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản còn hạn chế.
Có thể thấy, thách thức cân bằng giữa việc bảo tồn và khai thác lợi ích kinh tế là bài toán khó không chỉ ở Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới phải đối mặt. Việc phát triển quá mức, đe dọa giá trị của di sản dẫn đến tước danh hiệu là bài học và cũng đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế cần khớp nhịp với bảo tồn, phát huy giá trị danh hiệu. Chỉ khi cân bằng được bài toán này, các danh hiệu mới thực sự trở thành cú hích cho sự phát triển bền vững.
Phát huy danh hiệu phục vụ phát triển bền vững
Nhiều chuyên gia cho rằng, để bảo tồn di sản, các quốc gia phải nhìn nhận nguồn lực theo hướng đa dạng chứ không chỉ ở lĩnh vực tài chính. Cần xác định con người là trung tâm, mục tiêu của phát triển bền vững, tăng cường sinh kế bền vững cho người dân trong vùng di sản… Các ý kiến cũng chú trọng đến việc làm sao để có sự chung tay từ cộng đồng cư dân địa phương tham gia bảo vệ môi trường, bảo vệ di sản, nhấn mạnh đây mới là nguồn lực quan trọng nhất. Đồng thời, việc bảo tồn không chỉ chú trọng vùng lõi di sản mà cần có hoạch định cụ thể trên cả vùng đệm. Cũng có ý kiến cho rằng, nên lựa chọn trên danh sách các di sản văn hóa của Việt Nam đã được UNESCO công nhận để đưa vào giáo dục. Sau đó lựa chọn những di sản trên địa bàn, cộng đồng của địa phương giúp học sinh có được những hiểu biết về văn hóa của chính mình để từ đó các em có ý thức bảo vệ di sản.
Ở góc nhìn chuyên gia, cụ thể để phát huy giá trị của công viên địa chất toàn cầu tại Việt Nam, PGS.TS Trần Tân Văn - Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, kiến nghị: Một trong những yêu cầu tiên quyết của Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO là phải có một Ban quản lý đủ mạnh (cả về nhân lực, vật lực, tài chính...), đủ quyền hạn để có thể đảm đương mọi trách nhiệm trong quản lý công viên địa chất. Vì thế trước hết công viên địa chất cần được luật hóa, tương tự như cách hiện nay danh hiệu di sản thế giới đã được luật hóa trong khuôn khổ Luật Di sản văn hóa, hoặc tương tự như cách một số nước trên thế giới, như Hàn Quốc, Indonesia và sắp tới là Trung Quốc, đã và đang làm. Đặc biệt, vấn đề tuyên truyền, quảng bá, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng cũng là một trong những định hướng chủ đạo của Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO, là giải pháp lâu dài, hiệu quả nhất để hướng đến đáp ứng nguồn nhân lực. Cách làm tốt nhất là Ban quản lý phối hợp chặt chẽ với Sở GDĐT để xây dựng và triển khai chương trình này một cách rộng khắp, cho mọi đối tượng, từ cán bộ lãnh đạo tỉnh, các sở, ban, ngành, các huyện, hệ thống các trường học, các cộng đồng địa phương, và du khách.
Nêu kinh nghiệm từ các quốc gia, PGS.TS Lê Thanh Bình - Giảng viên cao cấp của Học viện Ngoại giao cho rằng: Trước hết, trong chính sách lớn, chiến lược dài hơi về văn hóa của nhiều nước phát triển, họ luôn có những phần lồng ghép với truyền thông quảng bá và không đơn giản truyền thông (nội dung, hình thức, cách thông điệp) mà đi liền với marketing để làm rõ mục tiêu, hiệu quả truyền thông ngay từ bước cơ bản.
Bên cạnh đó cũng cần đề cập đến kinh nghiệm các nước dùng công nghệ số hóa trong bảo tồn, bảo quản di sản, di tích phòng tránh, hạn chế bớt ảnh hưởng bị thời gian, môi trường tự nhiên bào mòn, phá hủy hay do các vụ tai nạn, thảm họa do con ngươi gây ra như hỏa hoạn, phá hoại, trộm cắp cổ vật, phục dựng sai với kiến trúc ban đầu, lợi dụng niềm tin để kinh doanh di sản văn hóa trái phép…
Khẳng định về giá trị của tài nguyên di sản, GS.TS Lâm Thị Mỹ Dung - Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (ĐHQG Hà Nội), nhìn nhận: Với một “hệ sinh thái” sinh lợi không thể “cân - đo - đong - đếm” từ tài nguyên di sản, việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa trong bối cảnh hiện nay đang là xu thế tất yếu của mọi quốc gia. Kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới cho thấy đầu tư vào di sản đã mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Tại Pháp, người ta ước tính đầu tư 900 triệu Euro cho di sản sẽ thu về 2 tỉ Euro. Nói như vậy để thấy rằng, di sản văn hóa ngày càng thể hiện rõ là “báu vật”, nguồn tài nguyên bền vững cho sự làm giàu của các quốc gia.
GS.TS Lê Anh Vinh - Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam: Bồi đắp tình yêu di sản cho học sinh
Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đã có những định hướng giáo dục bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa qua hệ thống các môn học, vì vậy giáo viên cần chú ý khai thác triệt để các nội dung giáo dục bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa đã được thể hiện trong sách giáo khoa của các môn học như: Tự nhiên và Xã hội, Địa lí và Lịch sử; Ngữ văn, Giáo dục công dân, Hoạt động trải nghiệm; Nội dung giáo dục địa phương… Tuy nhiên, cần chọn lọc những tư liệu điển hình nhất và xác minh tính chân thực của các tài liệu đó. Nên lựa chọn trên danh sách các di sản văn hóa của Việt Nam đã được UNESCO công nhận để đưa vào giáo dục. Sau đó lựa chọn những di sản trên địa bàn, cộng đồng của địa phương giúp học sinh có được những hiểu biết về văn hóa của chính mình. Đây là phương pháp dạy học tích cực, học sinh được trải nghiệm, khám phá kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành phẩm chất, yêu quý trân trọng và tự hào hơn về quê hương mình, từ đó có ý thức giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
Để giáo dục bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa phục vụ phát triển bền vững ở Việt Nam, cần phải xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ giữa ngành giáo dục, ngành văn hóa và có sự tham vấn của ngành du lịch từ Trung ương đến các địa phương. Hơn nữa, cần có sự phối hợp của nhà trường với phụ huynh học sinh và cộng đồng trong việc lồng ghép nội dung giáo dục di sản văn hóa vào trong mỗi bài học cũng như việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm. Từ đó, giúp cho học sinh tiếp cận với di sản nhiều hơn, có tình yêu di sản và ý thức bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc một cách bền vững.
Ông Phạm Phú Ngọc - Giám đốc Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An: Chính sách phát triển bền vững phải tác động tích cực tới đời sống
Trong nhiều năm qua, việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với du lịch theo hướng bền vững nhằm tạo động lực cho sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội là nhiệm vụ then chốt của Hội An, trong đó khu phố cổ là hạt nhân của di sản văn hóa. Các quy định như Quy chế bảo vệ khu phố cổ luôn hướng đến sự hài hòa, gắn kết vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan, trong đó có cộng đồng và doanh nghiệp hoạt động trong khu phố cổ để đảm bảo cho việc thực hiện hiệu quả các quy định này.
Về chính sách phát triển du lịch trên nền tảng di sản văn hóa, hạt nhân là khu phố cổ đã tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ, hiện nay nhóm ngành dịch vụ - thương mại chiếm khoảng 70% tỉ trọng trong nền kinh tế tạo nguồn thu ngân sách để không chỉ tái đầu tư cho bảo tồn mà còn trong phát triển các mặt kinh tế - văn hóa - xã hội của thành phố. Sự phát triển của nhóm ngành này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ về nhà hàng, khách sạn, khu du lịch nghỉ dưỡng, dịch vụ du lịch khác… trên địa bàn thành phố. Số liệu năm 2019 cho biết có 4.978 đơn vị hoạt động trên lĩnh vực thương mại - dịch vụ - du lịch; trong đó lĩnh vực vận chuyển có 33 đơn vị, lữ hành có 51 đơn vị, lĩnh vực cơ sở lưu trú có 774 đơn vị với tổng cộng 11.879 phòng. Đặc biệt lĩnh vực lưu trú homestay trong những năm qua có sự phát triển rất mạnh ở Hội An, trở thành loại hình dịch vụ lưu trú có số lượng lớn nhất với 321 cơ sở. Ngoài ra còn rất nhiều doanh nghiệp, một bộ phận không nhỏ người dân hoạt động nông nghiệp và các lĩnh vực ngành nghề khác cũng được hưởng lợi gián tiếp từ lĩnh vực thương mại - dịch vụ - du lịch.
Riêng trong khu phố cổ, hầu hết người dân đều tham gia các ngành nghề gắn với dịch vụ du lịch. Sự phát triển của du lịch còn làm cho giá trị của mỗi ngôi nhà tăng lên. Việc sinh lời có thể qua hình thức tự kinh doanh hoặc cho thuê mặt bằng kinh doanh phục vụ du lịch cho thấy chính sách này tác động rất tích cực không chỉ cho sự phát triển của thành phố mà còn tạo sự hưởng lợi trong đại bộ phận nhân dân và doanh nghiệp; tạo sự gắn bó, trách nhiệm của những thành phần hưởng lợi từ di sản cùng chung tay bảo vệ di sản.