Cảnh giác với bệnh thủy đậu
Bệnh viện Bạch Mai thông tin, thời gian gần đây Trung tâm Bệnh nhiệt đới tiếp nhận nhiều ca mắc bệnh thủy đậu nặng phải nhập viện. Đáng chú ý, trong đó 2 trường hợp đã tử vong.
Biến chứng nặng, dẫn tới tử vong
Theo PGS.TS Đỗ Duy Cường - Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới (Bệnh viện Bạch Mai), hiện nay các ca bệnh thủy đậu có diễn biến khá phức tạp. Trong một tháng vừa qua đã có những ca tử vong, mặc dù bệnh nhân không có tiền sử bệnh nền. Thủy đậu thường mắc ở trẻ em do không được tiêm phòng nên chưa có miễn dịch và lây qua đường hô hấp. Nhiều người dân vẫn nghĩ rằng chỉ trẻ em mới mắc thủy đậu nên chủ quan, dẫn đến những biến chứng khó kiểm soát.
Cụ thể, ngày 11/7 vừa qua, Trung tâm tiếp nhận một nữ bệnh nhân được chuyển đến điều trị vì mắc thủy đậu. Do diễn biến quá nặng, người bệnh đã tử vong sau hai ngày điều trị. Ở thời điểm trước đó, cũng đã có 1 nam thanh niên 32 tuổi đến cấp cứu tại Trung tâm này đã tử vong do mắc thủy đậu.
BS Cường cho biết thêm, những trường hợp bệnh nhân có biểu hiện nặng mắc các bệnh nền như ung thư, viêm phổi, viêm não, suy gan, nằm trong bệnh cảnh suy đa phủ tạng, hay đang phải sử dụng các loại thuốc như corticoid, loại thuốc ức chế miễn dịch để chữa bệnh gout, phổi, thận. Một số bệnh nhân nhập viện trên cơ địa đặc biệt hay phụ nữ có thai, đây là những đối tượng khi mắc bệnh thì virus sẽ bùng lên và tổn thương nặng. Bệnh nhân có thể tử vong nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, một số trường hợp có biến chứng như viêm phổi, viêm não, hoặc suy gan, thậm chí là suy đa phủ tạng cần lọc máu.
Mới đây nhất, Trung tâm Bệnh nhiệt đới vừa tiếp nhận thêm một bệnh nhân nam, 29 tuổi, ở Bắc Ninh có biến chứng nặng do mắc thủy đậu. Người nhà cho biết, bệnh nhân có dấu hiệu bị thủy đậu, nhưng đi khám thì chỉ uống thuốc rồi về, 2 hôm sau người bệnh thấy có dấu hiệu khó thở hơn. Bệnh nhân được chuyển đến Trung tâm trong tình trạng hồng cầu tụt, khó thở, phải hỗ trợ thở oxy, tình trạng tổn thương da toàn thân, nổi các nốt phỏng, sốt. Đây là trường hợp thủy đậu nặng, có biến chứng, suy gan, suy hô hấp, có biểu hiện tổn thương. Bệnh nhân có tiền sử bệnh gout. Hiện bệnh nhân phải điều trị bằng thuốc kháng virus, truyền tĩnh mạch, hồi sức tích cực…
Tiêm vaccine để phòng bệnh
BS Nguyễn Phương Thảo - Trung tâm Bệnh nhiệt đới (Bệnh viện Nhi trung ương) chia sẻ, bệnh thủy đậu (Chickenpox) là bệnh truyền nhiễm lây qua đường hô hấp do virus Varicella Zoster (VZV) gây nên. Thủy đậu xảy ra chủ yếu ở trẻ em, biểu hiện bằng sốt và phát ban dạng nốt phỏng, thường diễn biến lành tính. Bệnh cũng xảy ra ở người có suy giảm miễn dịch, phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh.
Biểu hiện của bệnh thủy đậu ở giai đoạn tiền triệu chứng thường kéo dài 1-2 ngày trước khi xuất hiện ban. Người bệnh mệt mỏi, sốt từ 37,8°-39,4°C. Ban trên da xuất hiện đầu tiên trên mặt và thân, nhanh chóng lan ra tất cả các vùng khác trên cơ thể. Virus thủy đậu lây truyền qua đường hô hấp. Người bệnh có khả năng lây cho người khác khoảng 48 giờ trước khi xuất hiện ban, trong giai đoạn phát ban (thường kéo dài 4-5 ngày) cho đến khi ban đóng vảy.
Theo các chuyên gia y tế, để phòng bệnh thì tiêm vaccine thủy đậu được chỉ định cho tất cả trẻ em trên 1 tuổi (cho tới 12 tuổi) chưa mắc thủy đậu và người lớn chưa có kháng thể với Herpes zoster. Vaccine thủy đậu có tính an toàn và hiệu quả cao.
PGS.TS Đỗ Duy Cường khuyến cáo, người dân nên đi tiêm phòng vaccine thủy đậu, không nên chủ quan với suy nghĩ bệnh thủy đậu chỉ mắc ở trẻ em, bị vài ngày rồi khỏi. Người lớn cũng phải có ý thức phòng bệnh, khi thấy trẻ em mắc bệnh hoặc người xung quanh mắc bệnh, phải có biện pháp đeo khẩu trang, hạn chế tiếp xúc vì bệnh lây qua đường hô hấp. Người lớn khi mắc thủy đậu thường có biến chứng nặng hơn vì thường có bệnh nền và khi phát hiện thường muộn hơn hoặc có chẩn đoán nhầm so với các bệnh khác. Tuyệt đối không chủ quan để hạn chế các biến chứng do bệnh thủy đậu gây ra.
Theo BS Nguyễn Phương Thảo - Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi trung ương, trẻ nhỏ, nhất là trẻ sơ sinh khi mắc thủy đậu rất dễ gặp những biến chứng khó lường. Vì vậy, việc cha mẹ nhận biết được biểu hiện bệnh sớm, theo dõi dấu hiệu trở nặng để đưa con đến cơ sở y tế điều trị kịp thời.