Đẩy mạnh xuất khẩu xanh
Việt Nam là quốc gia xuất khẩu nhiều loại hàng hóa. Vì vậy, việc chuẩn bị cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thích ứng hiệu quả với những tiêu chuẩn xanh là vấn đề sống còn.
Đáp ứng luật chơi mới
Nhiều nền kinh tế phát triển trên thế giới đã đặt ra những quy định liên quan đến môi trường khắt khe hơn đối với hàng hóa nhập khẩu như chính sách tăng trưởng xanh châu Âu, thỏa thuận xanh châu Âu kèm theo các cơ chế chương trình như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (Carbon Border Adjustment Mechanism - CBAM); Chiến lược từ Trang trại đến bàn ăn (Farm to Fork); Kế hoạch Hành động kinh tế tuần hoàn (Circular Economy Action Plan) hay Chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030. Chính vì vậy, để không bị loại khỏi cuộc chơi bởi các tiêu chuẩn cao về môi trường và xã hội do các thị trường nhập khẩu đặt ra, các nước xuất khẩu buộc thay đổi tư duy, quan tâm tới “tính xanh” của chuỗi cung ứng, trong thương mại quốc tế để đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật khắt khe của thị trường.
Tại Diễn đàn xúc tiến xuất khẩu Việt Nam 2023 với chủ đề “Xúc tiến xuất khẩu xanh” mới đây, Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh, phát triển xanh, bền vững được định hướng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 của Việt Nam; Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chương trình hành động quốc gia hoàn thiện chính sách và pháp luật nhằm thúc đẩy thực hành kinh doanh có trách nhiệm tại Việt Nam giai đoạn 2023-2027.
Việt Nam là một trong các quốc gia có những cam kết mạnh mẽ về môi trường tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu (COP26), trong đó có cam kết tiên phong đi đầu trong chuyển đổi năng lượng, cùng với chuyển đổi xanh và chuyển đổi số, với cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Đây là nhiệm vụ vừa mang tính xu thế của thời đại, vừa hết sức cần thiết đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế.
Theo giới chuyên gia, chỉ riêng với cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (Cơ chế CBAM), Việt Nam có 4 ngành hàng, hàng hóa lớn nằm dưới tác động gồm phân bón, sắt và thép, xi-măng và nhôm. Trong bối cảnh tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đối với hàng hóa thâm dụng carbon của Việt Nam vào thị trường châu Âu chiếm khoảng 13,8%, việc áp dụng CBAM sẽ ảnh hưởng nhiều đến xuất khẩu của Việt Nam, nếu các doanh nghiệp (DN), nhà sản xuất, xuất khẩu trong nước không tập trung đáp ứng các yêu cầu của cơ chế này sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu.
Cần sự hướng dẫn cụ thể
Ông Đinh Quốc Thái - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết, ngành thép - một trong những ngành tiêu tốn năng lượng và phát thải nhiều, buộc phải thúc đẩy nhanh hơn quá trình sản xuất xanh, giảm phát thải để tăng xuất khẩu vào EU, hướng tới mục tiêu “Net Zero” trong dài hạn. Tuy vậy, không dễ để DN có thể thực hiện yêu cầu này bởi làm thép xanh là con đường dài, đòi hỏi nguồn lực về tài chính, công nghệ, cũng như sự chủ động của DN, nhất là khi quy định giảm phát thải carbon vẫn còn mới.
Đại diện Hiệp hội Thép cho biết, sẽ tiếp tục nghiên cứu giải pháp và lộ trình triển khai nhằm cân bằng việc dần giảm phát thải carbon, đảm bảo tiến tới một ngành sản xuất thép có khả năng cạnh tranh và phát triển xanh. Để đẩy mạnh xuất khẩu, DN thép trong nước phải nâng cao kiến thức và hướng tới sản xuất xanh, bền vững, bắt kịp xu thế của thế giới.
Ngoài ra, để thúc đẩy xuất khẩu, ngoài sự nỗ lực từ phía DN, các cơ quan quản lý cần đơn giản hóa thủ tục nhận và báo cáo dữ liệu liên quan đến phát thải CO2, đồng thời, khuyến khích DN áp dụng chiến lược/kế hoạch hành động để ứng phó với Cơ chế CBAM. Ngoài ra, DN cũng cần được hướng dẫn chi tiết hơn về xác nhận lượng khí thải carbon và gửi dữ liệu cho các đối tượng liên quan đến phát thải CO2…
Ông Lê Văn An - Phó Chủ tịch Hiệp hội Cơ khí Việt Nam cũng cho rằng, trong việc chuyển đổi xanh có thể bắt đầu tư năng lượng tái tạo, tận dụng hồ thuỷ lợi, kênh mương tưới tiêu để sản xuất điện năng lượng mặt trời. Cùng với đó, trồng tre ở ven các hồ thuỷ lợi vừa mang lại giá trị kinh tế cao cho người nông dân, giữ nước, đất và cây tre cũng mang lại giá trị cả về tín chỉ carbon. Nếu thực hiện được thì việc chuyển đổi sản xuất xanh hoá sẽ rất hiệu quả trong việc phát triển thị trường và xuất khẩu vào thị trường EU.
Đơn cử, cây tre có thể dùng để sản xuất than và than này sản xuất ra hạt nhựa độ phân hủy cao, phù hợp với yêu cầu xanh hoá của EU hay viên nén tre để sản xuất điện sinh khối… Do đó, cơ hội sản xuất xanh phụ thuộc rất lớn vào DN, việc chuyển đổi cần có thời gian và sự hướng dẫn cụ thể để đáp ứng được tiêu chuẩn của nhà nhập khẩu.
Tiến sĩ Nguyễn Phương Nam - chuyên gia đánh giá quốc tế về báo cáo kiểm kê khí nhà kính của Liên hợp quốc (UNFCCC) khuyến nghị DN Việt cần đa dạng hóa các đối tác thương mại, bên cạnh việc thực hiện đánh giá rủi ro và lập kế hoạch các kịch bản và xây dựng chiến lược giảm lượng carbon với định hướng là giải pháp về lâu dài, bền vững.
Ngoài ra, việc tham gia vào các dự án bù đắp carbon và đánh giá mức độ thâm dụng carbon là một yêu cầu bắt buộc để DN Việt có thể hòa nhập với “luật chơi” mới về xuất khẩu xanh.
Ông Tạ Hoàng Linh (Bộ Công thương) cho biết, xuất khẩu hàng Việt sang thị trường Á - Âu (Eurasia) từ đầu năm đến nay sút giảm gần 10% trong khi Eurasia là thị trường truyền thống của Việt Nam trước đây và hiện nay được coi là thị trường xuất khẩu tiềm năng với rất nhiều dư địa hợp tác. Eurasia là liên khu vực rộng lớn gồm 28 nước, trải dài từ Đông Âu sang Trung Á. Xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực Eurasia chỉ chiếm khoảng 2,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và khoảng 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của khu vực này. Đây là dư địa để DN tận dụng khai thác trong năm 2024.