Trợ lực cho doanh nghiệp
Thị trường vốn lành mạnh là trợ lực rất lớn cho các ngành sản xuất. Trong điều kiện kinh doanh tốt hay khi có những bất ổn của thị trường thì vấn đề tín dụng sẽ có vai trò quan trọng, bởi đó chính là “dòng máu” để duy trì sản xuất.
Vốn nhỏ, khó cạnh tranh
Năm 2023 do bối cảnh kinh tế, địa chính trị trên thế giới có rất nhiều khó khăn, sức mua của người tiêu dùng trên thế giới suy giảm song các hiệp định thương mại (FTA) vẫn đóng góp tích cực cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Chẳng hạn, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trong 8 tháng đầu năm mang lại kim ngạch ở mức 63 tỷ USD và Việt Nam thặng dư 3,3 tỷ USD. Với EU, con số lần lượt là 38,5 tỷ USD và thặng dư là 9,5 tỷ USD.
Tuy nhiên, các hiệp định vẫn chưa được cộng đồng doanh nghiệp (DN) tận dụng triệt để, ví dụ, như năm 2022 tỷ trọng của xuất khẩu sang EU trong tổng xuất khẩu chung chỉ đạt khoảng 12%. Do vậy DN cần được tháo gỡ nhiều vấn đề để phát huy khi hội nhập, trong đó câu chuyện vốn là quan trọng.
TS Trương Thị Ái Nhi - chuyên gia của Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế tuần hoàn (ICED), dẫn chứng, mặc dù là nhà xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, nhưng Việt Nam chưa làm chủ được nguồn cung, chưa nắm được đầu ra của sản phẩm. Khâu dệt nhuộm chưa có quy hoạch về không gian phát triển nên chưa hình thành được các khu công nghiệp dệt may lớn có hệ thống xử lý nước thải tập trung. DN dệt may buộc phải chuyển đổi thì mới bắt nhịp được với yêu cầu các nước nhập khẩu song để chuyển đổi đòi hỏi nguồn vốn lớn. Điều này chính là điểm nghẽn lớn của cộng đồng DN.
Những biến động về kinh tế-chính trị - xã hội, kèm với câu chuyện hạn hẹp về vốn đã gây ra nhiều lúng túng cho DN dệt may trong khi dệt may được nhìn nhận là ngành có thể hưởng nhiều từ các FTA.
Bà Nguyễn Thị Lan Phương - Phó Trưởng phòng WTO và FTA, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công thương cho biết, tỷ lệ tận dụng FTA tại các thị trường đối tác FTA của Việt Nam cũng còn chưa đạt được kỳ vọng. Ví dụ như với EU, dù là thị trường được đánh giá tỷ lệ tận dụng tương đối cao cũng chỉ đạt ở mức khoảng 26%. Các DN đang tận dụng được tốt các FTA phần lớn là DN có vốn đầu tư nước ngoài, còn các DN Việt Nam, đặc biệt là DN vừa và nhỏ thì việc tận dụng cơ hội từ các FTA này còn tương đối hạn chế.
Bà Phương cũng khẳng định, nguyên nhân khiến việc thực thi FTA của DN còn hạn chế chính là việc tiếp cận các nguồn vốn và tài chính.
Thị trường vốn lành mạnh là trợ lực cho ngành sản xuất
Theo nhận định của Bộ Công thương, tỷ trọng cho vay không dựa trên bất động sản còn rất khiêm tốn so với các thị trường thế giới, chỉ dao động ở mức từ 25 – 30%, trong khi hơn 70% các khoản vay còn lại phải dựa trên cam kết bảo đảm bằng bất động sản. Trong khi đó, DN Việt Nam với điều kiện quản trị, điều kiện quản lý dòng tiền, hệ thống tài chính, công nghệ còn rất hạn chế, thì việc chứng minh những điều kiện đó rất khó khăn.
Về tình hình tiếp cận ngân hàng và các tổ chức tín dụng của các DN, năm 2017, tỷ lệ các DN có khoản vay từ ngân hàng và tổ chức tín dụng là 49,4%; trong năm 2018 và 2019, con số này là 45% và 43%. Đến năm 2020, khi dịch bệnh bắt đầu xuất hiện thì tỷ lệ này lại giảm tiếp đi, chỉ còn 42,9%. Tuy nhiên, tỷ lệ DN có các khoản vay này vào năm 2021 là 35,4% thì đến năm 2022 chỉ còn 17,8%.
“Tất cả những con số này đều đã, đang chứng minh được rằng khả năng tiếp cận tín dụng của các DN Việt Nam rất khó và đối với các DN nhỏ và vừa và siêu nhỏ thì khó khăn đó còn nhân lên gấp bội” - bà Phương nhấn mạnh.
Ở góc độ DN, ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) bày tỏ mong muốn sẽ tiếp tục nhận được sự đồng hành của ngành ngân hàng để làm sao giảm lãi suất với Việt Nam đồng là dưới 7% và lãi suất với USD là dưới 4%. Đây sẽ là một trợ lực đáng kể đối với ngành thuỷ sản để ít nhất trong năm tới 2024 sẽ có thêm nhiều dư địa để đẩy mạnh xuất khẩu.
Theo ông Nam, thị trường vốn lành mạnh là một trợ lực rất lớn cho các ngành sản xuất. Thị trường tín dụng, vốn phải nhìn dưới dạng win - win để nền kinh tế, chuỗi ngành hàng phát triển bình thường. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần gia tăng sức mạnh, cải thiện chính mình, điều chỉnh công nghệ sản xuất, giảm chi phí và duy trì sự đồng hành của tín dụng với lãi suất phù hợp.
Trong khi đó theo ông Nguyễn Quốc Hùng - Tổng Thư ký, Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA), để tận dụng được nguồn vốn, trước hết, DN phải hướng tới sản xuất, tiêu dùng xanh theo xu hướng chung và ngành ngân hàng phải có chính sách hỗ trợ nguồn lực, tư vấn cho các DN tận dụng những nguồn vốn.
Hiện nay ngành ngân hàng cũng đang trình Chính phủ, Quốc hội sửa đổi Luật Tổ chức tín dụng, trong đó điều chỉnh một số nội dung để tạo điều kiện cho người dân và DN có thể tiếp cận vốn về sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, kể cả cho vay tiêu dùng, sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu.
Báo cáo mới đây của Bộ Công thương về tình hình thực thi Hiệp định CPTPP, EVFTA và UKVFTA cũng chỉ ra, một trong những hạn chế khi triển khai các FTA là nhiều doanh nghiệp Việt Nam có chuyên môn, kinh nghiệm và khả năng tạo ra các sản phẩm tốt, chất lượng, có mong muốn xây dựng thương hiệu Việt nhưng thiếu nguồn vốn thực hiện. Các chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tận dụng cơ hội xuất khẩu từ các FTA chưa phát huy được hiệu quả tối đa để đáp ứng nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.