Vì sao Hàn Quốc sụt giảm dân số?
Theo số liệu từ Cục Thống kê quốc gia Hàn Quốc, nước này đang phải đối mặt với tình trạng tỷ lệ sinh thấp kinh niên do ngày càng nhiều người trẻ tránh sinh con trong bối cảnh kinh tế bất ổn và chi phí bất động sản tăng cao.
Tỷ lệ sinh của Hàn Quốc đã giảm xuống mức thấp kỷ lục là 0,78 vào năm ngoái, đánh dấu một cột mốc nghiệt ngã với quốc gia có số con dự kiến trên mỗi phụ nữ thấp nhất thế giới. Con số này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 1,66 ở Mỹ và 1,3 ở Nhật Bản vào năm 2021. Tỷ lệ sinh trung bình của các quốc gia trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đứng ở mức 1,58 cùng năm.
Bình luận trên kênh Channel News Asia (CNA), ông Dylan Motin - TS Đại học Quốc gia Kangwon, đồng thời là nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế cho biết, một số người liên kết sự sụp đổ về nhân khẩu học của Hàn Quốc với sự xuất hiện của chủ nghĩa nữ quyền và cho rằng, nó gieo rắc sự tổn thương trong trái tim phụ nữ, làm xấu đi mối quan hệ giới tính và ngăn cản phụ nữ trẻ sinh con.
Tuy nhiên, do có rất ít bằng chứng cho thấy “chủ nghĩa nữ quyền” là nguồn gốc của tình trạng khó khăn về nhân khẩu học ở Hàn Quốc, nên việc tập trung công khai vào vấn đề này có thể khiến các nhà hoạch định chính sách Hàn Quốc chuyển hướng khỏi việc giải quyết các vấn đề cơ cấu thực tế gây tổn hại đến khả năng sinh sản.
Nhân khẩu học của một quốc gia được coi là bền vững khi trung bình mỗi phụ nữ có 2,1 con trong đời. Tổng tỷ suất sinh (TFR) của Hàn Quốc đã giảm xuống dưới 2,1 vào năm 1983 và giảm xuống còn 1,5 vào năm 1998. Thực tế đó nếu không được giải quyết có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Nhìn rộng ra trên thế giới, trong những năm 2000, chính phủ Nga lo ngại rằng, tỷ lệ sinh thấp của dân số sẽ chấm dứt vị thế cường quốc và làm suy yếu khả năng phòng thủ của nước này. Nó làm cho vấn đề này trở thành ưu tiên quốc gia và thôi thúc chính phủ tìm cách đảo ngược đáng kể xu hướng này.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Pháp có dân số trì trệ và phải đối mặt với một nước Đức đang phát triển. Ở đây, nghệ thuật quản lý hiệu quả cũng đã thành công trong việc điều chỉnh nhân khẩu học của đất nước.
Theo ông Motin, Seoul nên biến vấn đề nhân khẩu học thành tình trạng khẩn cấp quốc gia và dồn toàn lực vào việc tìm kiếm giải pháp. Hàn Quốc phải thừa nhận những nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng nhân khẩu học. Áp lực phải hoàn thành các bằng cấp ở trường đại học và sau đó làm việc nhiều ngày với ít thời gian nghỉ ngơi khiến việc nuôi dạy con cái trở nên khó khăn đối với thanh niên Hàn Quốc.
Ông Motin cho biết, sự lo lắng sâu sắc về kinh tế trong giới trẻ là một yếu tố khác khiến việc sinh nở bị trì hoãn. Chi phí nhà ở và nợ hộ gia đình đã tăng đáng kể trong những năm gần đây, càng hạn chế khả năng gia đình. Hẹn hò và bạo lực gia đình cũng ngăn cản phụ nữ theo đuổi các mối quan hệ. Áp lực xã hội về việc đầu tư quá nhiều thời gian và tiền bạc vào việc giáo dục trẻ em càng làm vấn đề trở nên phức tạp hơn.
Việc sinh con ngoài hôn nhân vẫn bị phản đối trong xã hội Hàn Quốc, tuy nhiên rào cản đối với hôn nhân vẫn rất cao. Rào cản này thường gắn liền với sự giàu có, đặc biệt là việc mua nhà.
Điều này tạo ra một điểm mấu chốt, đó là mọi người chỉ dự tính kết hôn nếu họ có đủ tiền mua một căn nhà, nhưng việc mua một căn nhà sẽ khó khăn hơn đối với những người chưa kết hôn. Nhiều người không quan tâm đến hôn nhân nhưng vẫn muốn có con, nhưng việc bị lên án có con ngoài giá thú có thể khiến họ nản lòng.
Việc ly hôn sau khi sinh con sẽ cải thiện được tình hình. Vào năm 2022, chỉ có 2% ca sinh nở ở Hàn Quốc diễn ra ngoài hôn nhân. Tỷ lệ trung bình của OECD là khoảng 40% nhưng ở Pháp là trên 60% - một trong những nước phát triển nhất.
Theo ông Motin, bình thường hóa việc sinh con ngoài hôn nhân và thay đổi nhận thức xã hội có thể cải thiện khả năng sinh sản của Hàn Quốc. Việc công nhận pháp lý đối với các gia đình chưa kết hôn cũng sẽ hữu ích.
Tuy nhiên, ông Motin cho rằng, đây chỉ là một cách tiếp cận cần khám phá và cuộc khủng hoảng nhân khẩu học có nhiều nguyên nhân cần giải quyết.
Cục Thống kê quốc gia Hàn Quốc dự báo, tổng dân số Hàn Quốc sẽ tăng lên 51,75 triệu người trong năm 2024, rồi sẽ giảm dần và rớt khỏi mốc 50 triệu dân, cho tới năm 2050 còn 47,11 triệu người. Đến năm 2072, tổng dân số sẽ rơi khỏi ngưỡng 40 triệu người còn 36,22 triệu người, mức tương tự năm 1977. Dân số trong độ tuổi lao động cũng sẽ giảm từ 36,74 triệu người năm 2022 xuống 16,58 triệu người vào năm 2072.