Kinh tế

Cơ hội vàng cho mây, tre Việt

Khanh Lê 06/03/2024 10:41

Nếu như cuối năm 2022, xuất khẩu mây, tre, cói sụt giảm đáng kể thì hiện tại, kim ngạch xuất khẩu đã có sự phục hồi và tăng trưởng. Trên thế giới, sản phẩm mây, tre, cói Việt chiếm lĩnh 10-15% thị phần toàn cầu và sẽ tiếp tục tăng.

anhbaitren(7).jpg
Giá trị xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ đạt khoảng 3,5 tỷ USD mỗi năm. Ảnh: M.Hoa.

Sản phẩm mây, tre sang Mỹ tăng cao kỷ lục

Theo thông tin từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói và thảm Việt Nam lớn nhất với kim ngạch đạt con số kỷ lục, hơn 31,3 triệu USD, tăng trưởng tới 107,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể chỉ trong tháng 1/2024, xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói và thảm đã đạt hơn 79,7 triệu USD, tăng 11,8% so với tháng trước đó và tăng 74,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 39,2%. Kế tiếp là Anh với kim ngạch 5,3 triệu USD, tăng 55,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm tỷ trọng 6,6%. Nhật Bản đứng thứ ba với 5,2 triệu USD trong tháng 1 năm 2024, tăng 44% so với cùng kỳ năm 2022, chiếm tỷ trọng 6,5%. Bên cạnh đó, ngay trong đầu năm 2024, một số thị trường ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng như Thụy Điển (288%), Canada (230%), Italy (119%), Trung Quốc (214%)...

Theo nhận định chung, cơ hội phát triển cho ngành hàng mây tre đan của Việt Nam còn rộng mở. Khả năng chiếm lĩnh 10 - 15% thị phần trên thị trường thế giới là hoàn toàn khả thi. Theo các chuyên gia, quy mô thị trường tre toàn cầu dự kiến sẽ đạt 82,90 tỷ USD vào năm 2028. Dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 5,7% từ năm 2021 đến năm 2028 với các xu hướng nổi bật.

Việt Nam sở hữu diện tích tre rất lớn, lên đến 1,5 triệu héc-ta, phân bố ở hầu hết các tỉnh trên cả nước, trong đó có 37/63 tỉnh có diện tích trên 10.000ha. Tài nguyên tre Việt Nam phong phú và đa dạng với hàng trăm loài, trong đó có một số loài kinh tế cao như: luồng, lùng, trúc sào, lồ ô, bương, tầm vông, tre gai… Cả nước có khoảng trên 1.000 làng nghề mây tre đan, chiếm 24% tổng số các làng nghề trong cả nước. Trong đó, khu vực phía Bắc và miền Trung tập trung nhiều về các sản phẩm mây tre lá và cói, còn khu vực Tây Nam Bộ tập trung nhiều các sản phẩm về bèo tây, lá buông. Đây sẽ là lợi thế để sản phẩm thủ công mây, tre, cói phát triển trên thị trường thế giới.

Tận dụng cơ hội

Mặc dù có nhiều lợi thế về nguyên liệu cũng như nguồn nhân lực, song hiện nay nếu so với những mặt hàng xuất khẩu thu tỷ USD, xuất khẩu hàng mây, tre, cói của Việt Nam còn khá khiêm tốn. Tuy nhiên, theo các chuyên gia với việc thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như: RCEP, CPTPP, EVFTA… mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu cho các sản phẩm mây, tre, cói, thảm của Việt Nam; nhất là những thị trường có nhu cầu lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản… Trong khi đó, nghề mây tre đan gần như bị xóa sổ ở các nước phát triển do không thể ứng dụng dây chuyền công nghiệp để cơ giới hóa. Đây là cơ hội vàng cho các làng nghề truyền thống Việt Nam.

Một số thị trường mới nổi những năm gần đây như Trung Quốc, Tây Ban Nha, Nga, Australia… đang có xu hướng nhập khẩu nhiều các mặt hàng mây tre đan từ Việt Nam. Cụ thể, những năm gần đây, Trung Quốc và Tây Ban Nha đã gia tăng nhập khẩu các mặt hàng mây tre đan Việt Nam với mức tăng đáng kể, đó là cơ hội để cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như mây tre đan, cói, thảm có cơ hội tăng tốc.

Mặc dù có nhiều lợi thế phát triển, nhưng hiện các làng nghề nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng vẫn đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức về áp dụng khoa học kỹ thuật; thiếu lao động trẻ có trình độ tại các làng nghề không nhiều; một số kỹ thuật truyền thống tinh xảo nguy cơ mai một bị thất truyền; không có sự liên kết giữa các làng nghề; thiếu kiến thức về thị trường tiêu thụ...

Ông Lê Bá Ngọc - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ Việt Nam (Vietcraft) cho rằng, xu hướng tiêu dùng và sử dụng sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã thay đổi, đòi hỏi quy trình sản xuất phải minh bạch, rõ ràng, từ vùng nguyên liệu đến cả quá trình làm ra sản phẩm. Theo đó, có thể nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm làng nghề thông qua thiết kế đẹp hơn, áp dụng công nghệ thông tin giúp sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, có nhiều thông điệp hơn về giá trị nhân văn và giá trị văn hóa.

Cũng theo ông Ngọc, nếu chúng ta đầu tư vào phát triển hệ thống thiết kế một cách bài bản cho ngành thủ công ở Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu cho ngành không chỉ dừng lại ở con số hơn 3 tỷ USD như hiện nay, mà có thể sớm đạt được tốc độ tăng trưởng không dưới 30% hằng năm và đạt con số 10 tỷ USD đến năm 2030.

Khanh Lê