Hướng tới nền sản xuất phát thải thấp
Ước tính tại Việt Nam có khoảng 9.000 nồi hơi công nghiệp đang hoạt động, phần lớn các thiết bị này sử dụng than đá để đốt.
Nguy cơ ô nhiễm từ nồi hơi công nghiệp
Theo ông Trần Văn Lượng - Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam, trong sản xuất công nghiệp, nồi hơi công nghiệp là một thiết bị quan trọng. Hiện nay, nhiều ngành công nghiệp đang sử dụng nồi hơi như: dệt may, giày da, nhựa, thuốc lá, thực phẩm, rượu, bia, nước giải khát, thủy sản, chế biến nông nghiệp, sản xuất hóa chất, phân bón, sản xuất đường, sản xuất cao su...
“Hiện chưa có thống kê đầy đủ chính thức về số lượng nồi hơi công nghiệp. Tuy nhiên theo thông tin từ nguồn các tổ chức kiểm định nồi hơi hàng năm và đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về lao động, ước tính tại Việt Nam có khoảng 9.000 nồi hơi công nghiệp đang hoạt động. Phần lớn các cơ sở này vẫn sử dụng nguồn than đá để vận hành hệ thống nồi hơi” - ông Lượng cho hay.
Việc sử dụng nguồn than đá để vận hành nồi hơi không chỉ tăng chi phí cho doanh nghiệp mà còn là nhân tố gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm không khí.
Theo TS Tô Xuân Phúc - chuyên gia của Forest Trends, mặc dù tới nay chưa có con số thống kê về số lượng, công suất cũng như tổng lượng nguyên liệu than đá đang được sử dụng để vận hành hệ thống nồi hơi, nhưng các chuyên gia ước tính lượng than đầu vào đang được sử dụng là không nhỏ.
Vẫn theo ông Lượng, mặc dù Chính phủ chưa yêu cầu các cơ sở quy mô nhỏ này phải giảm phát thải, nhưng một số cơ sở đã tiên phong, tự nguyện thay thế một phần hoặc toàn bộ lượng than đá sử dụng cho hệ thống nồi hơi sang viên nén gỗ. Nhiều cơ sở đã và đang thực hiện việc chuyển đổi này nằm trong chuỗi cung toàn cầu, như các nhà cung ứng cho các hãng lớn như Adidas, Nike, Samsung...; một số cơ sở nằm trong các khu công nghiệp nơi có các cam kết về phát thải thấp, chuyển đổi xanh.
“Việc chuyển đổi nguồn than đầu vào của các cơ sở này sang các nguồn nhiên liệu sạch hơn có tiềm năng lớn trong việc giảm phát thải ở quy mô quốc gia. Đặc biệt đem lại lợi ích rất lớn khi ngành hàng viên nén gỗ của Việt Nam phát triển rất mạnh và có thị trường xuất khẩu ổn định” - ông Lượng nói.
Hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp chuyển đổi
Theo Báo cáo của Tổ chức Forest Trends, năm 2022, xuất khẩu viên nén gỗ bùng nổ với lượng xuất xấp xỉ 4,9 triệu tấn, kim ngạch đạt gần 790 triệu USD, tăng gần gấp đôi về giá trị so với năm 2021 do giá viên nén tăng cao. Bước sang năm 2023, kim ngạch xuất khẩu viên nén giảm nhẹ, đạt hơn 4,6 triệu tấn với giá trị gần 680 triệu USD (giảm 4,3% về lượng và 13,7% về giá trị so với năm 2022). So với giai đoạn tăng giá kỷ lục năm 2022, giá xuất khẩu viên nén bình quân đã giảm liên tục dưới 140 USD/tấn trong năm 2023. Con số này cho thấy nguồn nguyên liệu viên nén phục vụ thị trường nội địa trong việc chuyển nồi hơi đốt sang sinh khối (biomass), trong đó có viên nén rất dồi dào.
Theo TS Tô Xuân Phúc, Chính phủ Việt Nam cam kết mạnh mẽ với mục tiêu mức phát thải Net-Zero vào năm 2050. Để đạt mục tiêu này Chính phủ đã ban hành một số cơ chế, chính sách; trong đó có Nghị định 06/2022/NĐ-CP yêu cầu các cơ sở sản xuất có mức phát thải cao cũng như các bộ, ngành phải giảm phát thải khí nhà kính. Chính phủ đang thiết kế các cơ chế chính sách cần thiết để xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước. Với cam kết Net-Zero của Chính phủ, dư địa cho việc sử dụng viên nén tại thị trường nội địa là rất lớn.
“Tuy nhiên, hiện các cơ chế chính sách về giảm phát thải khí nhà kính mới chỉ tập trung vào các cơ sở có mức phát thải cao, chủ yếu là ngành công nghiệp nặng như năng lượng, sản xuất hóa chất công nghiệp, vận tải. Trong khi đó, các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ trong lĩnh vực dệt, nhuộm, chế biến bia, nước ngọt, hệ thống lò sấy… có sử dụng nồi hơi công nghiệp hiện chưa được quan tâm, nhiều cơ sở này vẫn đang sử dụng nguồn than đá để vận hành hệ thống nồi hơi” - ông Phúc nêu thực tế.
Để chuyển nồi hơi đốt sang nhiên liệu sinh khối (biomass), trong đó có viên nén, theo cộng đồng doanh nghiệp có rất nhiều thách thức. Trước hết là thiếu vốn đầu tư cho việc chuyển đổi; thiếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chế tạo nồi hơi đốt biomass; năng lực thiết kế, chế tạo của nhiều nhà chế tạo nồi hơi còn hạn chế. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư nồi hơi mới cao, chi phí cho phần cải tạo và chi phí do dừng sản xuất là các doanh nghiệp cần tính đến khi thực hiện chuyển đổi.
Một trong những thách thức nữa là thị trường carbon nội địa chưa hình thành nên chưa tạo thành động lực cho doanh nghiệp. Điều này cho thấy cần nhanh chóng có các cơ chế, chính sách và các hành động cụ thể để hình thành nhu cầu thị trường thông qua các cơ chế bắt buộc hoặc khuyến khích các cơ sở nội địa chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang các dạng năng lượng tái tạo.
Về vấn đề này, ông Lượng cũng cho rằng, cùng với việc bảo đảm nguồn cung ổn định, một trong những thách thức nữa cho cả doanh nghiệp sản xuất viên nén cũng như các doanh nghiệp sử dụng nồi hơi là thị trường carbon nội địa chưa hình thành nên chưa tạo thành động lực cho doanh nghiệp chuyển đổi. Tuy nhiên, Chính phủ đang thiết kế các cơ chế, chính sách cần thiết để xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước. Với cam kết Net-Zero, dư địa cho việc sử dụng viên nén gỗ tại thị trường nội địa là rất lớn.
Thống kê cho thấy, khoảng 5% tổng lượng viên nén sản xuất tại Việt Nam hiện đang được sử dụng nội địa, chủ yếu đưa vào hệ thống nồi hơi của các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ.