Tinh hoa Việt

Ca trù - Thanh âm tinh hoa Việt nghìn năm

VIỆT QUỲNH (Thực hiện) 22/04/2024 07:28

Nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền có nhiều cống hiến cho việc phục dựng và nghiên cứu chuyên sâu âm nhạc cổ truyền Việt Nam.

nnc-bui-trong-hien-5(1).jpg
Nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền.

Ông đã có những đóng góp quan trọng đối với những khám phá lịch sử âm nhạc dân tộc, trong đó có ca trù (ả đào) và cồng chiêng Tây Nguyên, cả hai được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.

Tinh hoa Việt đã có cuộc trò chuyện với nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, nhân dịp ra mắt cuốn sách “Ả đào - Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật” - một công trình nghiên cứu liên tục trong 9 năm của ông.

PV: Nguyên do nào để ông bắt đầu con đường nghiên cứu âm nhạc cổ truyền dân tộc?

Nhà nghiên cứu âm nhạc BÙI TRỌNG HIỀN: Gia đình tôi rất đam mê âm nhạc cổ truyền. Thế hệ ba mẹ tôi vốn thừa hưởng nền văn hóa nông thôn Bắc Bộ nên con cái đều chịu ảnh hưởng từ bé. Cả nhà người thì thích chèo, người thì thích quan họ, cải lương hay xẩm, luôn ôm lấy cái loa truyền thanh thời bao cấp mỗi khi Đài Tiếng nói Việt Nam có chương trình dân ca và nhạc cổ truyền.

Thuở nhỏ, từ năm lên 8, ba mẹ đã cho tôi học đàn bầu. Đến năm 10 tuổi thi vào Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Hết trung cấp thì hết hứng thú, thấy chán vì chương trình bài bản quanh đi quẩn lại toàn chơi nhạc dân tộc cải biên, mà tôi lại mê nhạc cổ truyền. Khi đó trong một mối lương duyên tình cờ, tôi gặp GS Vũ Nhật Thăng - giảng viên khoa Lý luận - Sáng tác - Chỉ huy của Nhạc viện.

Có lẽ ông phát hiện thấy điều gì đó trong tôi nên đã khuyên tôi chuyển sang học lý luận. Và ông chính là người thầy đầu tiên dắt tay tôi vào nghiệp nghiên cứu cổ nhạc - cũng giống như ông vậy. Mọi kỹ năng nghiên cứu sau này đều do ông hướng dẫn, chỉ bảo. Đến năm cuối trước khi ra trường, tôi lại được thụ giáo thêm với GS Tô Ngọc Thanh. Cả hai ông thầy đều chăm chút nuôi dưỡng nguồn cảm hứng cho học trò, từ trên ghế nhà trường cho đến khi trở thành một nhà nghiên cứu độc lập.

Âm nhạc cổ truyền dân tộc với ông có những điều gì thú vị?

- Nhạc cổ truyền Việt Nam là nền cổ nhạc của 54 dân tộc anh em, vô cùng đồ sộ, hết sức phong phú, đa dạng. Có làm cả đời người cũng không thể khám phá bao nhiêu kho tàng kỳ vĩ đó. Nếu coi mặt cắt lịch sử thời đầu thế kỷ 20 là điểm mốc sinh ra tân nhạc Việt Nam thì toàn bộ vốn liếng âm nhạc của cha ông trở về trước đều được tính là nhạc cổ truyền.

Chỉ riêng việc nghiên cứu, học hỏi những hệ giá trị đó cũng đã quá ư thú vị rồi. Với tôi, việc khám phá cổ nhạc giống như lẽ sống - phải hiểu bằng được những thanh âm tinh hoa mà tiền nhân để lại.

Nó cũng là ham muốn, có thể coi nó như khoái cảm thứ năm, nhiều hơn tứ khoái của người thường.

bieu-dien-ca-tru-5.jpg
Biểu diễn ca trù thường có ít nhất 3 người.

Ông có thể chia sẻ về việc xây dựng đề án cho ả đào và cồng chiêng Tây Nguyên để được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới?

- Cồng chiêng Tây Nguyên lúc đầu thì đơn giản là nhiệm vụ cơ quan giao phó, tôi phải hoàn thành. Năm 2004, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam (VICAS) được giao nhiệm vụ xây dựng hồ sơ Không gian văn hóa cồng chiêng trình UNESCO. GS Tô Ngọc Thanh - được mời làm cố vấn đặc biệt chỉ đạo chuyên môn.

Đầu tháng 5, trước khi lên đường đi điền dã, ông gọi tôi đến nhà bảo cháu phải làm những việc a, b, c… để chứng minh được sự phong phú và đa dạng của nhạc cồng chiêng Tây Nguyên. Ông còn nói thêm: “Những việc này chưa ai làm được đâu”. Thế là lên đường…

Còn với ả đào thì khác. Hồi Viện Âm nhạc làm hồ sơ ca trù trình UNESCO năm 2006, họ có mời tôi tham gia viết về không gian văn hóa và môi trường diễn xướng của thể loại. Bẵng đi một thời gian dài sau đó, tôi cũng chưa bước vào nghiên cứu chuyên sâu, bởi có quá nhiều khó khăn. Ví dụ rất khó tiếp cận những nghệ nhân nhà nghề cuối cùng, vốn chỉ còn lại vài người. Mà tư liệu cũng quá ít. Nhiều cái nghe mà vẫn chưa thực sự thấu hiểu như những loại cổ nhạc khác.

Chẳng hạn 3 nghệ nhân nhà nghề cuối cùng là Nguyễn Phú Đẹ, Nguyễn Thị Chúc và Phó Thị Kim Đức đều chê các đào kép thời nay là “đàn hát không có phách, không đúng khuôn khổ” nhưng thực sự tôi chưa hiểu thế nào là đúng.

Cho đến tháng 8/2014, Viện Âm nhạc có mời tôi làm giám khảo cuộc Liên hoan ca trù toàn quốc cùng nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ - kép đàn nhà nghề cuối cùng của ca trù. Ngồi bên ông trong những ngày chấm thi, liên tục nghe ông than phiền về các tiết mục biểu diễn của đào kép, nào là “nó hát chả có phách gì cả, đàn gì mà khuôn khổ lung tung” hay “chỗ này phải xuống cung Bắc chứ tại sao lại đàn trên cung Nam như thế…”.

Lúc đó tôi mới chợt tỉnh ngộ, ông là người cuối cùng có thể trả lời, giải đáp mọi khúc mắc đúng - sai, hay - dở của nghệ thuật ca trù. Thế là đúng một tuần sau, vợ chồng tôi xách ba lô lên đường về nhà ông ở Hải Dương, bắt đầu cuộc lội ngược dòng để quyết tâm khám phá, giải mã đến cùng mọi giá trị của nhạc ả đào. Và đây không phải là một dự án, đề án nào cả, chỉ đơn thuần là một nghiên cứu tự thân thôi.

Tiếc của, xót ruột với di sản của tiền nhân thì phải làm cho ra nhẽ. Bây giờ đào kép đàn hát sai quá nhiều, tôi tìm ra âm luật để hiểu thế nào là đúng - sai thôi. Còn phục dựng được hệ giá trị cổ điển như thế nào là việc của họ.

Là nghiên cứu tự thân, nhưng ông cũng may mắn nhận được sự quan tâm giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu của mình?

- Trong quá trình 9 năm tiến hành nghiên cứu ả đào, tôi luôn chia sẻ những phát hiện mới cũng như những khó khăn, khổ ải của công việc cho các đồng nghiệp ở cơ quan. Mỗi lần trò chuyện về ả đào với anh em bạn bè như một dịp giải tỏa, giảm thiểu nỗi cô đơn, nhọc nhằn trên con đường dài sâu thẳm. Biết được sự “đơn thương độc mã” này, năm 2017, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam khi đó là GS.TS Từ Thị Loan đã đầu tư kinh phí cho tôi xây dựng dự án “Bảo tồn và phát huy di sản ca trù tại thành phố Hà Nội” với mục tiêu tập huấn nhạc ả đào cổ điển theo phương pháp tiếp cận mới.

Trong đó, các lý thuyết mới đúc kết cùng hệ thống băng đĩa tư liệu sưu tầm phục dựng sẽ được lấy làm căn cứ để giúp đào kép tham gia dự án có thể nắm bắt được toàn bộ những gì tinh tế, phức tạp nhất của nhạc ả đào cổ điển.

Dự án lấy nhóm Ả đào Phú Thị - Hà Nội làm đối tượng thực nghiệm ứng dụng các nghiên cứu. Bên cạnh đó, dự án cũng đào tạo lớp quan viên cầm chầu đầu tiên theo phương pháp tiếp cận mới, trong đó có các nghiên cứu viên VICAS giờ đây đã có người biết cầm chầu nhạc ả đào.

Năm 2020, Viện trưởng Bùi Hoài Sơn lại tiếp tục hỗ trợ công trình lần thứ 2. Lần này là dự án “Hiệu chỉnh khuôn thước, âm luật và bài bản tại các CLB Ca trù Hải Phòng”. Vẫn là hướng nghiên cứu ứng dụng, nhưng so với dự án năm 2017, chương trình tập huấn lần này có một số điểm khác biệt: Một là các nghiên cứu về âm luật ả đào đã được bổ sung và hoàn thiện hơn trước trong hệ thống giáo trình giảng dạy.

Hai là dự án sẽ chỉ lấy tinh hoa ngón nghề của hai danh ca Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc và danh cầm Đinh Khắc Ban làm chuẩn mực, khuôn thước cho việc hiệu chỉnh nghệ thuật. Đây là các đào nương, kép đàn được xem như những bậc tài danh đỉnh cao của nhạc ả đào trong thế kỷ 20. Cả hai dự án nghiên cứu ứng dụng nêu trên đều thành công tốt đẹp, mở ra một phương pháp tiếp cận mới trong việc học nhạc ả đào cho đào kép thời nay.

bieu-dien-ca-tru-6.jpg
Biểu diễn ca trù (ả đào).

Với cuốn sách nghiên cứu về ả đào, ông đã cho thấy đây là loại hình âm nhạc đầy bản sắc dân tộc Việt?

- Một trong những điều làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc, sung sướng đến vỡ òa là những phát hiện mới về một số bài bản - thể cách ả đào. Những bài bản mà trước đây chưa từng có tài liệu nào nhắc đến. Nó giống như nhà khảo cổ học, tìm thấy những cổ vật quý giá ẩn mình dưới những tầng sâu của lòng đất. Có 2 trường hợp: Một là thể cách đọc thơ trầm - bài bản hệ âm 5 cung được dùng trong một số liên khúc ở trình thức hát cửa đình.

Trong tư liệu thế kỷ 20, chỉ có hai bản thu âm đọc thơ trầm của hai đào nương Nguyễn Thị Cúc (1963) và Đinh Thị Bản (1979). Hai là thể cách Bình văn - đây là một lối ngâm thơ cổ của ả đào, chuyên dùng trong các cuộc bình thơ của giới nhà Nho, quan lại thời xưa. Đặc biệt, âm điệu của Bình văn thuộc hệ âm 4 cung cổ xưa, như một tiền đề, sự khởi nguồn hình thành âm điệu Hơi Xuân trong nhạc tuồng Bắc và sau này là nhạc lễ Nam Bộ và nhạc tài tử - cải lương.

Có thể xem đây như một “mã gen di truyền”, một phân đoạn “ADN âm điệu” thuần Việt trải dài theo dòng di cư mở đất mở nước về phương Nam của ông cha ta thuở trước.

Ả đào vốn phủ sóng khắp các vùng miền quê dưới hình thức hát cửa đình, cửa đền... Đầu thế kỷ 20 mới ra phố thị mở nhà hát Cô đầu.

Trong lối hát ả đào, theo ông cần đặc biệt chú ý các vấn đề gì về kỹ thuật?

- Trong hát ả đào, kỹ thuật khó nhất là ém hơi láy chìm và đổ hột con kiến. Những kỹ thuật này không thể hình thành trong một sớm một chiều mà đòi hỏi sự rèn luyện chăm chỉ trong nhiều năm tháng. Đào nương xưa hát rất nhẹ nhàng nhưng lại có chiều sâu bằng lối vận hơi ở bụng. Các cụ gọi là tận thổ can tràng - tức tiếng hát như từ gan ruột vang ra, đặc biệt lắm.

30 năm qua, từ khi phong trào về nguồn ả đào được khơi dậy, đã có những đào kép tâm huyết, cố gắng tìm học lại vốn cổ từ một số nghệ nhân lão thành cuối cùng.

Lúc đó, phần lớn các cụ đều đã ở tuổi xế chiều, nhiều cụ tai nghễnh, không còn khả năng truyền dạy sung mãn. Rồi do hoàn cảnh đặc thù, không phải ai cũng có cơ hội được tiếp cận hay được học với các cụ.

Người may mắn lắm thì được học kiểu mót nghề trong vài năm, không thể toàn tâm toàn ý; có người chỉ được vài ba tháng hay học lỏm, còn lại đều mày mò tự học qua băng đĩa - vốn cũng rất ít ỏi… Thời xưa, quá trình đào luyện trong giáo phường thường kéo dài từ 8-10 năm, đào kép song hành học nghề cùng nhau từ tấm bé. Họ chỉ ra làm nghề sau lễ Mở xiêm áo, khi đã được các bậc trưởng lão sát hạch.

Điều đó lý giải tại sao cho đến nay, đại đa số đào kép thế hệ mới vẫn bị các nghệ nhân nhà nghề cuối cùng là Nguyễn Phú Đẹ, Nguyễn Thị Chúc và Phó Thị Kim Đức chê là “đàn hát không có phách, không đúng khuôn khổ…” hay “đàn không ra cung bậc…”. Có nghĩa về mặt chuyên môn, đào kép thời nay đã không nắm bắt được âm luật ả đào cổ điển.

Thậm chí nhiều người còn không nhận thức được nhịp điệu bài bản; không hiếm những kép đàn rất phô - sai cung bậc mà vẫn say sưa diễn tấu… Nhiều cô đào cố gắng bắt chước lối nảy hạt của bà Quách Thị Hồ nhưng lại thành ra kiểu hát mới gằn giọng, cường độ rặn hơi rất lớn do phải nén thật mạnh… Nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ từng than phiền với tôi về lối “hát rặn” này, cụ gọi đó là lối “nảy hột cứt dê”; hay “nghe nó hát tôi khiếp lắm, hát như tốc ngói hội trường”…

Vậy thế nào là đúng - sai, hay - dở? Đó quả là một thách thức lớn của các bậc tiền nhân ả đào dành cho hậu thế. Nếu không xác định được chuẩn mực khuôn thước - âm luật của tiền nhân, chúng ta sẽ mãi mãi chỉ ở trong miền ảo vọng.

Với cuốn sách “Ả đào - một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật”, ông gửi gắm những mong muốn gì?

- Cầm cuốn sách trên tay, chắc hẳn sẽ rất nhiều người nhận thấy các phần 2, 3, 4, 5 trong sách là khó hiểu? Bởi đây chính là những phần bàn về hệ âm luật - tức lý thuyết cơ bản nhạc ả đào từ toàn bộ đến từng phần.

Đó là khối lượng công việc khổng lồ mà tôi đã dành toàn bộ tâm lực miệt mài đọc tư liệu, nghe băng, phân tích, giải mã ngày đêm suốt 9 năm ròng. Xin được tiết lộ, 4 tháng trước khi mất, GS Trần Văn Khê đã trao gửi toàn bộ niềm tin, rằng tôi sẽ giải mã đến tận cùng hệ âm luật hóc hiểm này.

Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan thì coi đây là “công việc mà không ai dám động bút”. Còn thầy của tôi - GS Vũ Nhật Thăng cũng phải dành đúng một tháng để đọc duyệt toàn bộ phần nghiên cứu khổ đàn, khổ phách… Sau đó ông than rằng: “Đúng là bây giờ đàn hát lung tung hết!”

Cuối năm 2020, khi tôi trình bày dự án “Hiệu chỉnh khuôn thước và bài bản cho các CLB Ca trù Hải Phòng”, biên tập viên VTV1 Trang Hoàng đã chăm chú theo dõi buổi thuyết trình rồi về chia sẻ trên Facebook: “Cổ nhân chỉ học truyền khẩu mà chính xác, chuẩn mực như thế, con cháu không thể bảo tồn sai hay làm hỏng di sản được… bảo tồn di sản có thể chưa hay, nhưng trước hết phải đúng đã. Đừng sai thành hệ thống là sau này sẽ mất hết”.

Với cuốn “Ả đào - một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật”, hãy giữ lại cho ngày hôm nay và cho con cháu mai sau. Hãy đọc thật chậm, cảm nhận từng phân đoạn, từng chi tiết, vấn đề…

Nếu chúng ta không đọc được bản nhạc thì con cháu chúng ta ắt sẽ đọc được… Bởi đó là hệ âm luật của một thể loại nhạc kỳ vĩ nhất, có số phận bi thương nhất trong lịch sử văn hóa dân tộc.

Theo ông, việc giáo dục âm nhạc truyền thống vào trong nhà trường cần thiết ra sao để tạo ra sự tiếp nối giữ gìn từ thế hệ trẻ?

- Trước nhất phải giáo dục những bậc làm cha làm mẹ trước. Khi cha mẹ có thị hiếu, ắt sẽ ảnh hưởng tốt đến các con. Chứ chăm chăm giáo dục thiếu niên nhi đồng, rồi về nhà các con nghe - thích cổ nhạc bằng cách nào đây? Nói thì dễ vậy nhưng việc giáo dục thẩm mỹ nhạc cổ truyền cho thế hệ trẻ là việc rất khó, đòi hỏi sự đồng bộ về môi trường, truyền thông và nhiều thứ khác nữa.

Trân trọng cảm ơn ông!

VIỆT QUỲNH (Thực hiện)