Kinh tế

“Chạy nước rút” nâng hạng thị trường chứng khoán - Bài cuối: Đề cao tính minh bạch

H.Hương (thực hiện) 25/05/2024 14:09

Theo chuyên gia kinh tế - TS Nguyễn Trí Hiếu, một vấn đề rất quan trọng (kể cả khi được nâng hạng) đó là việc minh bạch thông tin thị trường chứng khoán.

mr-nguyen-tri-hieu.jpg
TS Nguyễn Trí Hiếu.

PV: 2 rào cản lớn nhất cho quá trình nâng hạng là tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài (room ngoại) và ký quỹ trước giao dịch (pre-funding). Để giải quyết vấn đề này, Bộ Tài chính đang sửa đổi một số điều luật và triển khai ngay trong 6 tháng đầu năm nay. Theo đó, sẽ trao quyền quyết định tỷ lệ ký quỹ cho công ty chứng khoán (CTCK) và một vài CTCK lớn có nhiều khách hàng là tổ chức nước ngoài được áp dụng đầu tiên, giải quyết câu chuyện về ký quỹ trước giao dịch. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này?

TS Nguyễn Trí Hiếu: Hiện, giao dịch ký quỹ tại Việt Nam rất hạn chế, ngay nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài mở tài khoản cá nhân cũng có vấn đề. Đơn cử ở lĩnh vực ngân hàng, Việt kiều sử dụng dịch vụ ngân hàng hạn chế, không được sử dụng ATM, các giao dịch phải đến ngân hàng thực hiện. Bản thân tôi là một chuyên gia hoạt động lâu năm ở Việt Nam nhưng giao dịch với ngân hàng vẫn áp theo quy định của Việt kiều nên rất hạn chế.

Yêu cầu của cả MSCI và FTSE (tổ chức chuyên về các dịch vụ chỉ số tài chính) đối với Việt Nam khi nâng hạng thị trường, thì những giao dịch cần phải thông thoáng để các NĐT giao dịch thuận lợi.

Đối với yêu cầu của hai tổ chức MSCI và FTSE loại bỏ yêu cầu các quỹ phải có tiền mặt ở trong nước. Tôi nghĩ rằng, nếu đáp ứng yêu cầu này thì bất lợi cho tổ chức chứng khoán. Để nâng hạng mà yêu cầu loại bỏ điều này là điều vô lý. Khi bỏ quy định các NĐT phải có tiền mặt trong tài khoản tác động đến một số nhà đầu tư thanh toán ký quỹ, thực hiện giao dịch trong ngày.

Đối với vấn đề hạn chế tỷ lệ sở hữu cổ phần (room) nước ngoài, theo tôi, ở một số lĩnh vực nên mở room để NĐT nước ngoài họ mang công nghệ, vốn và quản trị vào doanh nghiệp (DN) đang thua lỗ, vực lại DN yếu kém đó. Với những ngành nghề đầu tư khác cần có điều kiện và hạn chế.

Ngoài ra còn số ngành nghề các NĐT nước ngoài muốn đầu tư vốn chủ sở hữu 100%. Tuy nhiên, DN Việt Nam không muốn bán tỷ lệ lớn vì lo ngại các đối tác nước ngoài sẽ vào thao túng công ty. Nếu nới room tỷ lệ cho NĐT nước ngoài ở các ngành nghề đầu tư có điều kiện như ngân hàng thì họ sẽ mặn mà hơn, có thể nới lên 49%.

anhbaitren.jpg
Minh bạch thông tin góp phần tạo sự phát triển bền vững cho thị trường chứng khoán. Ảnh: Quang Vinh.

Vấn đề đặt ra là nếu nới room cho NĐT nước ngoài, nhiều công ty lo ngại sẽ bị thâu tóm. Ông bình luận gì về vấn đề này?

- Tôi cho rằng đâu đó vẫn có những lo ngại khi nới room, nâng mức sở hữu thì các NĐT ngoại đưa DN vào quỹ đạo của họ, rủi ro cho DN nội, không phù hợp với nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý có đầy đủ công cụ, chức năng để quản lý hoạt động này. Có thể xử phạt những hoạt động mang tính lũng đoạn ngân hàng, chẳng hạn NĐT nước ngoài tìm cách trốn thuế, sử dụng DN đó rửa tiền...

Một DN yếu kém, được nới room, NĐT nước ngoài đầu tư vào họ sẽ bỏ công sức, tài chính, quản trị… làm lợi cho DN đó. Các DN nhỏ không có sự hỗ trợ về tài chính có thể tiếp tục yếu kém, thậm chí có nguy cơ huỷ niêm yết trên thị trường.

Theo tôi, những lĩnh vực hạn chế nới room, hạn chế NĐT nước ngoài sở hữu là lĩnh vực quốc phòng, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, truyền thông, hàng không, ngân hàng quốc doanh. Còn những lĩnh vực bảo hiểm, tài chính... nên nới room dần cho người nước ngoài.

Tôi lấy ví dụ, Mỹ cũng đã mở room cho NĐT nước ngoài 100% với điều kiện NĐT nước ngoài đó phục vụ quyền lợi của đại chúng và họ xem xét NĐT nước ngoài có định hướng phù hợp với chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương , hỗ trợ cho cộng đồng NĐT đang hướng tới đầu tư.

Kỳ vọng nâng hạng thị trường sẽ là những động lực giúp TTCK Việt Nam tăng trưởng tích cực trong năm nay. Ông nhìn nhận như thế nào về thực tế TTCK Việt Nam đang trong quá trình nâng hạng?

- Để đáp ứng các tiêu chí nâng hạng thị trường do MSCI đánh giá còn rất khó khăn, cho đến hiện tại Việt Nam vẫn chưa được đưa vào danh sách theo dõi, trong khi đó FTSE đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi từ năm 2018.

Các tiêu chuẩn của FTSE đưa ra ít hơn các tiêu chuẩn của MSCI. Trong khi MSCI đang đòi hỏi TTCK Việt Nam minh bạch, thì tại Việt Nam xảy ra rất nhiều sự việc tiêu cực như bán khống, thao túng, vụ FLC, Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát và một loạt các công ty chứng khoán vi phạm trong thời gian vừa qua bị xử phạt. Như vậy con đường để tới thị trường mới nổi qua MSCI rất "chênh vênh".

Trong lúc này, chúng ta cần một mặt tranh thủ FTSE để họ chấp thuận, mặt khác tập trung nỗ lực tranh thủ MSCI công nhận các tiêu chí còn thiếu, yếu trong việc nâng hạng thị trường, để có nguồn đầu tư lớn cho tương lai.

Tuy nhiên, một vấn đề rất quan trọng là kể cả khi được nâng hạng, thì việc minh bạch thông tin thị trường vẫn luôn phải duy trì. Bởi nếu các thị trường được nâng hạng lên mới nổi nếu không đáp ứng được tiêu chí, các tổ chức quốc tế đánh giá lại sẽ kéo xuống thị trường cận biên. Do đó, Việt Nam cần phải cố gắng, khi được xếp hạng không có nghĩa là an toàn. Nếu không đáp ứng được các tiêu chí thì FTSE và MSCI sẽ kéo xuống cận biên trở lại.

Trân trọng cảm ơn ông!

Ông Nguyễn Thế Minh – Giám đốc nghiên cứu phân tích công ty chứng khoán Yuanta Việt Nam:

Hiện nay có một số điểm nghẽn trong nâng hạng thị trường, với tiêu chuẩn FTSE điểm nghẽn lớn và xem như là quyết định đó là ký quỹ cho nhà đầu tư nước ngoài. Theo quy định giao dịch TTCK tại thị trường Việt Nam, bắt buộc NĐT nước ngoài ký quỹ 100% nhưng quy định nâng hạng thị trường phải giảm tỷ lệ ký quỹ này xuống, chúng ta nỗ lực tháo gỡ. Trong 1 năm chúng ta có 2 kỳ đánh giá nâng hạng vào tháng 3 và tháng 9 của 2 tổ chức quốc tế MSCI và FTSE Russell. Trong trường hợp nếu chúng ta gỡ được điều kiện tỷ lệ ký quỹ vào trước thời điểm tháng 9/ 2024 thì có khả năng cao chúng ta sẽ được nâng hạng thị trường và có hiệu lực vào đầu năm sau, năm 2025.

Chúng ta nhận thấy Bộ Tài chính đang có giải pháp ngắn hạn và dài hạn. Ở giải pháp ngắn hạn có khả thi khi giao tỷ lệ ký quỹ cho công ty chứng khoán và giải pháp dài hạn là áp chuẩn bù trừ trung tâm (CCP). Song tính dài hạn này còn phụ thuộc hệ thống giao dịch hiện tại cũng như tính kết nối của công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại.

Điều kiện rất lớn nữa là điều kiện sở hữu NĐT nước ngoài. Tỷ lệ sở hữu của NĐT nước ngoài đối với công ty chứng khoán là 100% nhưng các ngành nghề khác là tối đa 49%, hay ngành nghề nhạỵ cảm như ngân hàng là 30%. Như vậy còn nhiều ràng buộc với tỷ lệ sở hữu. Do vậy thời gian tới vấn đề quan tâm là điều kiện và ngành nghề kinh doanh.

H.Hương (thực hiện)