Từ bao giờ vậy? (Kỳ 18)
Chuyện mục “Từ bao giờ vậy?” do GS Nguyễn Lân Dũng phụ trách xuất hiện trên Tinh hoa Việt từ số 202 ra ngày 25/8/2023, đến nay đã được nhiều độc giả theo dõi, chờ đón. Ở số báo Tinh hoa Việt kỳ này, GS Nguyễn Lân Dũng mang tới cho độc giả lược sử về nghề in, về sách, về báo chí và lịch sử của thế vận hội Olympic. Đây cũng là kỳ cuối, khép lại chuyên mục này.
Nghề in ấn
Lịch sử của nghề in ấn là một chặng đường dài và phức tạp, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại và phát triển đồng thời với sự tiến bộ của con người trong việc giao tiếp và truyền tải thông tin.
Nghệ thuật in ấn đầu tiên được phát triển tại Trung Quốc vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, với việc sử dụng các khắc dấu gỗ để in lên giấy và vải. Sự phát triển này đã tạo nền tảng cho việc truyền tải tri thức và văn hóa qua các thế kỷ.
Vào thế kỷ 10, đế chế Đại Việt đã phát minh ra một hệ thống chữ viết gọi là chữ Nôm. Các nghệ sĩ trong đế chế này đã sử dụng kỹ thuật in để sản xuất sách và tác phẩm văn học.
Năm 1440, Johannes Gutenberg tạo ra máy in chữ đầu tiên. Điều này đã làm thay đổi cách thức truyền tải tri thức và thông tin, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử in ấn. Máy in của Gutenberg cho phép sản xuất sách và tài liệu nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Trong thế kỷ 19, với sự phát triển của máy móc và công nghệ, ngành in ấn trở nên công nghiệp hóa. Các máy in gia đình và máy in tờ rơi đã trở nên phổ biến, tạo điều kiện cho in ấn đại chúng và tiến bộ về quy trình sản xuất.
Đến thế kỷ 20, việc in ấn tiếp tục thay đổi với sự xuất hiện của máy in laser và máy in phun. Thêm vào đó, sự phát triển của máy tính và internet đã đưa in ấn vào một kỷ nguyên số hóa. Điều này cho phép in ấn tùy chỉnh và in sách số lượng ít trở nên phổ biến hơn.
Ngày nay, nghề in ấn vẫn đóng vai trò quan trọng trong xã hội, dù đã có sự gia tăng của phương tiện truyền thông số hóa. Các công ty in ấn không chỉ sản xuất sách, báo, và tài liệu quảng cáo mà còn cung cấp dịch vụ in ấn trực tuyến cho cá nhân và doanh nghiệp.
Lịch sử của nghề in ấn phản ánh sự phát triển của xã hội và công nghệ thông qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Từ việc in bằng tay đơn giản tại thời kỳ cổ đại đến sự phát triển mạnh mẽ của in ấn số hóa ngày nay, nghề in ấn đã chứng kiến nhiều biến đổi quan trọng và vẫn tiếp tục thích nghi với thời đại mới.
Báo chí
Lịch sử của báo chí là một hành trình phức tạp và đa dạng, kéo dài suốt hàng nghìn năm và có sự tiến bộ liên tục theo thời gian. Dưới đây là một cái nhìn tổng quan về lịch sử của báo chí, bao gồm các sự kiện quan trọng trong lĩnh vực này:
Thời kỳ cổ đại (trước Công nguyên - thế kỷ 15): Trước khi có báo chí, thông tin được truyền tải bằng cách truyền miệng hoặc qua tường thành. Những biểu tượng như dòng sông Nil ở Ai Cập cổ đại đã được sử dụng để phân phát tin tức. Hay thư viện Alexandria của Hy Lạp cổ đại được xem như một trong những trung tâm ghi chép và lưu trữ kiến thức hàng đầu của thế giới cổ đại.
Kỷ nguyên in ấn (thế kỷ 15 - 18): Sự phát triển của in ấn ở châu Âu đã mở ra cơ hội mới cho việc truyền tải thông tin. Từ đây các tờ báo đầu tiên xuất hiện ở châu Âu vào cuối thế kỷ 15 và bắt đầu phổ biến ở thế kỷ 17.
Cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, các tờ báo đã trở nên phổ biến hơn với sự ra đời của các tờ báo uy tín như The Times ở Anh và The New York Times ở Mỹ.
Sự phát triển của máy in nhanh hơn và các công nghệ in ấn cùng với quyền tự do báo chí đã giúp báo chí mở rộng phạm vi tác động và trở thành công cụ quan trọng trong việc thúc đẩy dân chủ và quyền tự do ngôn luận.
Trong thế kỷ 20, báo chí tiếp tục phát triển với sự xuất hiện của hình ảnh và hình ảnh động. Các hãng thông tấn như Reuters đã chuyên sâu vào việc truyền tải hình ảnh từ các sự kiện quan trọng. Truyền hình và radio đã mở rộng khả năng tiếp cận với thông tin, đặc biệt trong thời gian chiến tranh.
Đến thế kỷ 21, Internet và công nghệ số hóa đã thay đổi cách thông tin được sản xuất, phân phối và tiêu thụ. Các trang web tin tức trực tuyến, mạng xã hội và dự án “citizen journalism” (báo chí công dân) đã nở rộ, cho phép mọi người dễ dàng chia sẻ thông tin và ý kiến của họ. Sự lan truyền nhanh chóng của tin tức trực tuyến cũng đặt ra nhiều thách thức liên quan đến độ tin cậy và sự kiểm duyệt tin tức.
Hiện nay, báo chí đang tiếp tục phải thích nghi với sự thay đổi của công nghệ. Các hình thức truyền thông mới như podcast, video trực tiếp và trí tuệ nhân tạo đang thúc đẩy sự đổi mới trong ngành. Bên cạnh đó, vấn đề về độ tin cậy và kiểm duyệt tin tức vẫn là một thách thức quan trọng trong thế kỷ 21. Trong tất cả các giai đoạn của lịch sử, báo chí đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thông tin, giáo dục và thúc đẩy các giá trị dân chủ.
Ở Việt Nam, báo chí cách mạng Việt Nam trước năm 1945 đã có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Từ những năm đầu tạo dựng phong trào cách mạng vô sản, tổ chức những cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ trong suốt hàng chục năm để tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945, báo chí cách mạng luôn là một vũ khí sắc bén, đấu tranh có hiệu quả vào việc tuyên truyền, tổ chức, cổ động các chiến sĩ cách mạng và quần chúng chiến đấu.
Từ báo Thanh Niên (1925) đến báo Cờ Giải Phóng (1945), trong 20 năm ấy, báo chí cách mạng từ một tờ báo khổ nhỏ, biên tập và in số lượng ít, từ nước ngoài đưa về nước, đến tháng 8/1945, đã có gần 400 tờ báo và tạp chí in ở trong nước với số lượng lớn. Hình thức in ấn của báo chí cách mạng cũng rất phong phú đa dạng, từ in thạch đến in litô, typô, các số báo của một tờ cũng không đều nhau, loại giấy to, nhỏ, tốt, xấu không thống nhất, kỹ thuật in còn kém, tờ rõ, tờ bị nhòe, báo ra không định kỳ nhưng nhìn chung báo chí cách mạng giai đoạn này đã góp phần to lớn cho những thành quả của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Sách
Sách (Books) là loại giấy đóng lại trên đó in tác phẩm khoa học, văn chương, lý luận, nghệ thuật… Gần đây còn xuất hiện loại sách đọc trên máy tính hay điện tử thông minh và được gọi là sách điện tử (e-book).
Vậy sách có từ bao giờ?
Câu trả lời là cuốn sách đầu tiên có cách đây khoảng 4.000 năm. Đó là vào thời kỳ Ai Cập cổ đại, là những cuốn sách của Vua Neferirkare Kakai, triều đại khoảng 2400 năm trước Công nguyên. Người Ai Cập cổ đại thường viết trên giấy cói, một loại cây mọc dọc theo sông Nile.
Lúc đầu các từ không được chia tách rời nhau (scriptura continua) và không có dấu chấm câu. Văn bản được viết từ phải sang trái, trái sang phải, hoặc thậm chí mỗi dòng được viết theo chiều khác nhau. Thuật ngữ cho việc viết mỗi dòng theo chiều khác nhau được gọi là boustrophedon, có nghĩa đen là quay - trâu vì lối viết này tương tự cách người nông dân quay đầu trâu khi đi hết một đầu của luống cày.
Ngoài ra, một số sách bằng kim loại đã được làm ra, với các trang nhỏ hơn bằng kim loại, thay vì một cuộn kim loại dài và cứng.
Trước khi có phát minh và áp dụng đại trà kỹ thuật in ấn, gần như tất cả các sách đã được sao chép bằng tay, khiến sách rất đắt tiền và tương đối hiếm. Tu viện nhỏ thường chỉ có vài chục cuốn sách, tu viện vừa có thể có một vài trăm cuốn. Đến thế kỷ thứ 9, các bộ sưu tập sách lớn có được trên 500 cuốn và thậm chí vào cuối thời Trung Cổ, các thư viện của giáo hoàng tại Avignon và thư viện Paris tại Sorbonne chỉ có khoảng 2.000 cuốn sách.
Các loại mực khác nhau đã được biết đến từ thời cổ đại. Chúng thường được tạo thành từ bồ hóng và nhựa cây, và sau này từ hạt mật và sunfat sắt. Các thành phần này tạo ra cho chữ viết một màu đen nâu, nhưng màu đen hoặc nâu không phải là các màu duy nhất được sử dụng.
Có những văn bản viết bằng màu đỏ hoặc thậm chí màu vàng, và các tranh minh họa đã được vẽ các màu khác nhau. Đối với bản thảo rất sang trọng toàn bộ giấy da có màu tím, và chữ viết trên giấy da đó đều được viết bằng nhũ vàng hay bạc.
Các tu sĩ Ireland đã phát minh ra cách viết dấu cách giữa các từ trong thế kỷ thứ 7. Điều này khiến việc đọc sách dễ dàng hơn, vì những tu sĩ này thường ít quen thuộc với tiếng La Tinh. Tuy nhiên, việc sử dụng dấu cách giữa các từ không trở nên phổ biến cho đến tận thế kỷ thứ 12.
Những cuốn sách đầu tiên dùng da lợn hoặc da cừu để viết. Bìa cuốn sách được làm bằng gỗ và được phủ da. Trong thời Trung Cổ sau đó, khi các thư viện công cộng xuất hiện cho đến thế kỷ thứ 18, sách thường bị xích vào một kệ sách hoặc bàn để ngăn chặn việc trộm cắp.
Người dân nhiều tôn giáo (Do Thái giáo, Kitô giáo, Hỏa giáo, Hồi giáo) và người dân tộc bản địa (Syria, Coptic, Ba Tư, Ả Rập...) ở Trung Đông cũng sản xuất và đóng sách trong thời đại vàng của Hồi giáo (từ thế kỷ thứ 8 đến năm 1258). Họ phát triển các kỹ thuật tiên tiến trong thư pháp Hồi giáo, xây dựng tiểu cảnh và đóng sách. Một số thành phố Hồi giáo thời Trung Cổ đã có các trung tâm sản xuất sách và các chợ sách.
Sau này, việc sử dụng giấy làm tài liệu lưu trữ chữ viết tương đối rẻ thay vì da lợn hay giấy cói của người Hồi giáo. Đây được coi như một cuộc cách mạng có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với lịch sử của sách Hồi giáo, mà còn cho toàn thế giới sách.
Trong phương pháp in khắc gỗ, một hình ảnh ngược của toàn bộ trang được khắc vào các khối gỗ, sau đó khối gỗ được lăn mực và được sử dụng để in các bản sao của trang đó. Phương pháp này có nguồn gốc từ Trung Quốc, thời nhà Hán (trước năm 220), như một phương pháp in ấn lên vải và sau này là giấy.
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong vùng Đông Á. Cuốn sách lâu đời nhất được in bằng phương pháp này là cuốn "Kinh Kim Cương" (năm 868).
Máy in chạy bằng động cơ hơi nước trở nên phổ biến trong những năm đầu thế kỷ 19. Những máy in này có thể in 1.100 tờ mỗi giờ, nhưng mỗi công nhân chỉ có thể sắp được 2.000 chữ mỗi giờ. Máy sắp chữ đơn dòng và đa dòng đã được phát minh vào cuối thế kỷ thứ 19. Với các máy này có thể sắp hơn 6.000 con chữ mỗi giờ và sắp cả một dòng toàn bộ các con chữ cùng một lúc. Sau thế kỷ 15 con người tập trung vào việc nâng cao công nghệ in ấn và các điều kiện cho tự do báo chí thông qua việc nới lỏng dần các luật kiểm duyệt gắt gao.
Thế vận hội Olympic
Những cuộc thi đấu thể thao quan trọng đối với người Hy Lạp tới mức họ tính lịch của mình từ năm 776 trước Công nguyên, năm ra đời những cuộc thi đấu lâu đời nhất mà chúng ta được biết đến. Ngày hội thể thao lớn và mang tính chất tôn giáo này được tổ chức tại Olympia để tôn vinh thần Zeus, vị thần quyền uy nhất trong các vị thần Hy Lạp.
Các cuộc thi đấu được tổ chức vào mùa hè cứ 4 năm một lần và kéo dài suốt cả tuần lễ. Trong thời gian này các cuộc chiến tranh nếu có đều dừng lại. Lệnh đình chiến được ban hành và trên toàn cõi Hy Lạp mọi người đều có thể đến Olympia một cách an toàn. Người chiến thắng đầu tiên trong Đại hội Olympic là Coroebus. Đầu tiên là các bang ở Hy Lạp nộp đồ triều cống cho thần Zeus.
Sau đó là các bang cử ra các nhóm lực sĩ của mình để chuẩn bị thi đấu với các bang khác. Cuộc thi chỉ dành riêng cho những người đàn ông thuộc dòng dõi người Hy Lạp. Nhưng kể từ khi một lực sĩ không may gặp vấn đề trang phục vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, tất cả các lực sĩ đều phải trần truồng khi thi đấu. Ngày đầu tiên của Đại hội dành riêng cho việc tế lễ. Ngày thứ hai là ngày thi đi bộ. Các ngày sau là thi vật, môn thi kết hợp giữa đấu vật với đấm bốc như quyền Anh sau này.
Người chiến thắng là người quật được đối thủ xuống đất 3 lần. Môn đua ngựa dành riêng cho những người giàu có nhưng lại thu hút rất nhiều người tham gia cá cược. Sau đua ngựa là thi điền kinh 5 môn phối hợp, bao gồm vật, ném đĩa: vật, ném dĩa, phóng lao, nhảy xa và chạy nước rút. Các đĩa được làm bằng đồng còn cây lao thì gắn với một cuộn dây ở đầu để lao phóng đi được xa hơn và chính xác hơn. Còn môn nhảy thì chỉ có nhảy xa, không có nhảy cao. Môn cuối cùng là môn chạy có mặc áo giáp.
Những người thắng cuộc được đội trên đầu một vòng hoa Ôliu dại. Họ được các nhà thơ ca tụng,và được sống quãng đời còn lại bằng kinh phí của nhà nước.
Đại hội Olympic cổ đại đã lên đến đỉnh cao của tính đại chúng vào thế kỷ thứ 5 và 4 trước Công nguyên. Vận động viên kiệt xuất nhất Hy Lạp cổ đại là Milo người xứ Croton, đã liên tiếp thắng giải năm kỳ Thế vận hội từ năm 536 cho đến năm 520 trước Công nguyên. Trong lần cuối cùng, ông ta vác trên vai một con vật tế thần bước vào sân vận động, trước khi ngồi xuống và ăn thịt nó.
Tuy phụ nữ không được tham gia các kỳ đại hội nhưng trong lịch sử Hy Lạp xưa vẫn có vài vận động viên nữ thắng giải Olympic. Nổi tiếng nhất là Kyniska - con gái của Vua Archidamus II xứ Sparta, chiến thắng môn đua ngựa.
Ngay cả khi Ki Tô giáo được truyền vào Hy Lạp, các kỳ Đại hội thể thao Olympic vẫn luôn được tổ chức. Cho đến khoảng năm 394, khi Hoàng đế La Mã là Theodosius I Đại Đế ban Thánh chỉ cấm đoán Đa thần giáo và công nhận Ki Tô giáo là quốc giáo của Đế quốc La Mã. Chính ông ta đã hủy bỏ Đại hội Olympic cổ đại.
Vào năm 426, Hoàng đế Theodosius II xuống Thánh chỉ đốt sạch các miếu thờ Đa Thần giáo trên vùng Địa Trung Hải. Không những thế, do thời đó liên tục có những trận động đất và lũ lụt, người ta không thể tổ chức Đại hội được nữa.
Ý tưởng về Đại hội thể thao Olympic được hồi sinh vào đầu thế kỷ thứ 19, vào năm 1896. Người khởi xướng việc này là một người Pháp tên là Pierre de Courbetin. Cuộc thi đấu diễn ra tại Athens, Hy Lạp.
Về sau Đại hội thể thao Olympic hiện đại (Thế vận hội), là cuộc thi thể thao quốc tế để các vận động viên thể thao từ các nước khác nhau tranh tài, tổ chức 4 năm một lần tại những nơi khác nhau. Có hai loại đại hội Olympic là Olympic mùa Hè và Olympic mùa Đông. Qua năm 1992 cả hai Thế vận hội được tổ chức cùng năm, nhưng từ năm 1994 thì được đổi lại sao cho cả hai sự kiện thể thao này diễn ra trong các năm xen kẽ nhau. Ví dụ, Olympic mùa Đông tổ chức năm 1994 thì Olympic mùa Hè tổ chức năm 1996.
Thế vận hội được quản lý bởi Ủy ban Olympic quốc tế (viết tắt là IOC). IOC ra đời tại Paris năm 1894 như một ủy ban độc lập và tự lựa chọn các thành viên cho mình. Hầu hết các thành viên được bầu chọn vào IOC là những cá nhân, đơn vị đã phục vụ trong NOCs (National Olympic Committees - Các ủy ban Olympic quốc gia) tại chính quốc gia của thành viên đó.
Ủy ban Olympic Việt Nam được thành lập ngày 20/12/1976. Sau hơn 40 năm hoạt động Ủy ban Olympic Việt Nam đã phát huy hiệu quả vai trò trách nhiệm của mình cùng với các tổ chức thành viên nỗ lực, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và có đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển thể dục thể thao ở nước nhà, tạo ra những thành công lớn trong phong trào Olympic Việt Nam trên các lĩnh vực chiến lược: Thể thao cho mọi người; Thể thao thành tích cao và quan hệ quốc tế trong lĩnh vực thể thao.
Với những thành tích đã đạt được trong thời gian qua, đặc biệt là sự phát triển vượt bậc của với thành tích đoạt huy chương vàng của xạ thủ Hoàng Xuân Vinh, của lực sĩ cử tạ Lê Văn Công... và thành công trong công tác đăng cai tổ chức các Đại hội thể thao quốc tế lớn trong châu lục và khu vực như SEA Games 2003, AIG 2009, ABG 2016…
Ủy ban Olympic Việt Nam đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba và được Ủy ban Olympic quốc tế đánh giá là Ủy ban Olympic quốc gia hoạt động năng động nhất của phong trào Olympic ở các nước đang phát triển. Hiệp hội các Ủy ban Olympic quốc gia đã chọn Việt Nam là 1 trong 9 Ủy ban Olympic quốc gia trên thế giới được trao tặng Giải thưởng “Ủy ban Olympic quốc gia có thành tích đột phá năm 2016”.