Ngành gỗ và lâm sản: Tìm hướng đạt mục tiêu xuất khẩu 15,2 tỷ USD
Chi phí vận tải biển tăng cao, việc hoàn thuế chậm... đang là những áp lực đối với mục tiêu xuất khẩu đạt con số 15,2 tỷ USD trong năm 2024 của ngành gỗ và lâm sản.
Những thông tin nói trên được đưa ra tại Hội nghị giao ban ngành chế biến gỗ và xuất khẩu gỗ và lâm sản Quý III năm 2024 tổ chức tại Bình Dương ngày 9/8.
Ngành gỗ và lâm sản của Việt Nam đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực trong 7 tháng năm 2024, với kim ngạch xuất khẩu đạt 9,36 tỷ USD, tương ứng với 61,5% kế hoạch năm. Dù vậy, theo Bộ NNPTNT, mục tiêu đạt 15,2 tỷ USD xuất khẩu trong năm nay vẫn gặp nhiều khó khăn do những biến động kinh tế toàn cầu và xung đột chính trị leo thang. Ngoài ra, chi phí vận tải biển tăng cao và việc hoàn thuế chậm trễ cũng gây thêm áp lực cho các DN trong ngành.
Dù vậy, ngành gỗ vẫn có những tín hiệu khả quan khi một số sản phẩm xuất khẩu chính tăng mạnh. Điển hình là dăm gỗ tăng gần 38% và gỗ cùng các sản phẩm từ gỗ tăng trên 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này phần nào cho thấy sự nỗ lực của các hiệp hội và doanh nghiệp (DN) trong ngành trong việc chủ động tìm kiếm thị trường mới và gia tăng giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản trong những tháng đầu năm.
Phân tích về những khó khăn, ông Đỗ Xuân Lập - Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) cho biết, thị trường Hoa Kỳ, chiếm hơn 54% tổng giá trị xuất khẩu của ngành gỗ Việt Nam, đã chứng kiến nhiều thay đổi về chính sách thương mại. Các DN xuất khẩu phải đối mặt với nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại liên tiếp; trong đó, Hoa Kỳ đã tiến hành 3 vụ kiện liên quan đến ngành gỗ. Thêm vào đó, với việc Hoa Kỳ chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, các DN xuất khẩu sẽ tiếp tục bị phân biệt đối xử trong các cuộc điều tra chống bán phá giá, gây áp lực lớn lên chi phí và biên lợi nhuận.
Tại thị trường EU, Quy chế Chống mất rừng (EUDR) của Liên minh châu Âu dự kiến sẽ có hiệu lực vào tháng 12/2024, đặt ra nhiều thách thức cho DN xuất khẩu gỗ khi phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về nguồn gốc sản phẩm và các yếu tố liên quan đến môi trường; Tại thị trường Đông Bắc Á, bao gồm Hàn Quốc và Nhật Bản, cũng đã áp dụng các biện pháp mới làm tăng chi phí và rủi ro cho các DN xuất khẩu...
Trước những khó khăn này, ông Lập cho rằng, giải pháp của ngành gỗ Việt Nam hiện tại và trong thời gian tới cần tập trung vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của DN dựa trên 5 trụ cột chính bao gồm: Kỹ thuật, công nghệ sản xuất, giảm phát thải, quản trị (chuyển đổi số), xúc tiến thương mại và xây dựng tiêu chuẩn giám sát nội bộ.
Ông Lập cũng đề nghị các cơ quan chức năng xây dựng chính sách hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại cho ngành gỗ, nhằm giúp các DN có nhiều hơn nữa các cơ hội giới thiệu, quảng bá hình ảnh gỗ Việt sang các thị trường xuất khẩu. Đề nghị Bộ Kế hoạch và đầu tư có chính sách để các tỉnh không khuyến khích doanh nghiệp FDI đầu tư dự án sản xuất các sản phẩm của ngành gỗ mà nước đó đã bị nước thứ 3 áp thuế chống bán phá giá.
Bộ NNPTNT cần có chính sách hướng tới có cơ chế hỗ trợ phát triển các chương trình, dự án cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững trên phạm vi toàn quốc thay vì các doanh nghiệp/tổ chức làm các chứng quản lý rừng bền vững ở quy mô nhỏ, lẻ.
Nhằm nâng cao năng lực phòng vệ thương mại, VIFOREST đề nghị Bộ NNPTNT, Bộ Công thương và các cơ quan liên quan của Chính phủ hỗ trợ, hướng dẫn các DN ứng phó với các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ. Đồng thời cần có cơ chế phối hợp để cập nhật các thông tin thay đổi về chính sách tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm của ngành gỗ Việt và cung cấp các dự báo, cảnh báo và các thông tin liên quan tới phòng vệ thương mại.