Vấn vương khói bếp
Nói đến mùi của khói bếp có khi trẻ con bây giờ ít có đứa nào quan tâm hay để ý đến.
Điều đó dễ hiểu thôi vì bây giờ nhà nào cũng bếp ga, bếp điện, nồi chảo sáng choang, mấy ai dùng bếp rơm, bếp củi, nhọ nồi, bồ hóng bám đen như chúng tôi hồi xưa nữa. Lứa chúng tôi sinh ra khi cuộc sống còn nhiều khó khăn, những lam lũ nhọc nhằn vẫn hằn sâu trong ký ức. Và mùi khói rơm thơm trong gian bếp đầy bồ hóng năm nào có lẽ vì thế mà cứ quẩn quanh mãi chẳng chịu tan đi trong khứu giác. Giống như chiều nay, ngọn khói lá xanh lam bay lên từ trong một khu vườn nhỏ ven đường cũng khiến tôi nôn nao trong dạ, phải lập tức hít hà đầy lồng ngực mùi hương cay nồng ấy. Những sợi khói xanh mảnh dẻ len lỏi qua tán cây dẫn tôi về với ngôi làng nhỏ năm nào, khi mà thước đo sự ấm no sung túc của mỗi gia đình được lấy chuẩn mực từ độ lớn cây rơm ngoài sân hay cái cót quây đựng lúa trong buồng.
Khi bé tí, tôi đã quen thuộc với khói bếp, nói chính xác là khói rơm vì hồi ấy củi cũng hiếm lắm, chỉ những nhà giàu mới có tiền mua củi.
Nấu cơm canh, đun nước uống hay nấu cám cho lợn cũng bằng rơm. Có khi, nước uống đun không khéo bị oi oi mùi khói, nồi cơm trắng có một góc vàng và những vụn tro bay vào, điều đó rất bình thường, chẳng có ai lấy làm phiền lòng vì nó. Nhà nông, có rơm hay rạ đun là hạnh phúc lắm rồi vì còn phải để dành một phần cho trâu ăn lấy sức kéo cày.
Ngày mùa đến, trẻ con chúng tôi đứa nào cũng biết phơi rơm, chiều đến là đi dọn cho kịp trước khi mặt trời tắt nắng. Hết mùa gặt là bao giờ trong sân nhà cũng có một cây rơm cao ngất ngưởng, nó cho chúng tôi chỗ trốn tìm lý tưởng. Trong trí tưởng tượng của tôi, nó giống hệt như một cây nấm khổng lồ, có cả cái mái để che mưa che nắng, u ấp đàn gà con.
Phải khéo tay lắm mới được cử trèo lên đánh đống rơm, một cây rơm đẹp là cây rơm tròn, cân đối, người đi rút rơm đun cũng cần biết cách, phải rút đều xung quanh để tránh cây rơm bị nghiêng vẹo dễ đổ. Mái cây rơm nhiều lúc như là một mái nhà ấm áp, chúng tôi hay rúc vào đấy chơi trò buôn bán, trốn tìm. Chẳng có gì hạnh phúc hơn khi tìm thấy cả ổ trứng hồng hào của con gà mái đẻ lang nằm tròn xoay trong chân đống rơm mềm như nhung ấy.
Vào những buổi trời mưa, rơm ngoài cây bị ướt rất khó nhóm lửa nên gian bếp bao giờ cũng nhiều khói. Những sợi khói bị nước mưa dìm xuống không thể bay cao nên cứ la đà trên mái ngói và quẩn quanh trong không gian, nhuộm cả gian bếp nhỏ thành màu lam đặc sánh. Có hôm, khói trong bếp đặc đến độ tôi có thể đưa tay ra và xắn lấy từng miếng được.
Bỏ qua việc mắt mũi cay xè và đỏ hoe như vừa bị mắng oan, chúng tôi vui sướng khum hai bàn tay lại để nhốt khói trong đó, chạy thật nhanh mang ra sân rồi thích thú nhìn những sợi khói mỏng chui qua từng kẽ tay, uốn lượn rồi dần tan đi trong không khí. Bài đồng dao quen thuộc về ngọn khói, chúng tôi thuộc lòng từ tấm bé, hình như tôi thuộc nó ngay từ hồi chưa biết mặt chữ, mỗi lần thấy khói rơm xanh um trong gian bếp nhỏ là gân cổ lên hét vì tin rằng làm như thế, khói sẽ tự động bay đi và không làm mình cay mắt:
Khua khua, khói khói
Về đằng kia ăn cơm với cá
Về đằng này lấy đá đập đầu…
Khói bếp đặc biệt gây ấn tượng nhất trong tôi là vào những khi trời đã bắt đầu chuyển lạnh, không gian khô ráo và không còn nóng nực như dạo mùa hè. Màu khói sẽ trắng, mỏng, thơm và nhẹ bẫng. Nó càng thơm nồng nàn hơn khi ngọn lửa biết cười kia làm đám lá cây khô rụng trong sân nhà tôi bật lên những tiếng reo tí tách. Trong gian bếp mùa đông, tôi hay ngồi bên bếp, vừa ngắm nhìn vũ điệu mê ly của ngọn lửa đang nhảy múa dưới đáy nồi vừa chờ đợi một món gì đó đang đun trên bếp hoặc là một thứ củ đang vùi trong than nóng.
Có thể là khoai, ngô, sắn, đao, từ hay một khúc mía cũng được cho vào bếp nướng. Cái lạnh sẽ làm cho ngọn lửa sáng và rực rỡ hơn. Lửa rơm cháy rất nỏ nhưng ít than lại mau tàn nên đun gì cũng phải ngồi ở đấy để canh chừng chứ không chạy đi chơi được.
Trong lúc ngồi chờ đồ ăn chín, có một niềm vui không bao giờ thiếu của tôi là nhặt những hạt bỏng được sinh ra khi hạt thóc còn sót lại trong rơm nổ lép bép để ăn tạm cho đỡ sốt ruột. Những hạt bỏng xuất hiện bất ngờ như một bông hoa trắng, nếu không nhanh tay dùng que cời ra là có thể bị lửa làm cháy đen mất.
Sợi rơm khô vào mùa đông rét mướt còn hay tặng cho lũ trẻ con chúng tôi một báu vật nữa là những con cúi rơm bện chặt. Khói từ con cúi ấy sẽ giữ cho ngọn lửa ấm bùng lên giữa những tàn tro tưởng chừng đã tắt. Và bàn tay ám khói thơm nồng sẽ bớt lạnh cóng cũng nhờ ngọn khói mong manh trong con cúi rơm thần thánh đó.
Cùng với khói, mùi cơm đang sôi, mùi những món ăn đang nấu trong nồi, mùi những thứ đang nướng trong than hay mùi của những con châu chấu mỡ béo ngậy mỗi khi mùa tới là những lưu hương vĩnh viễn không bao giờ phai trong trí nhớ của tôi. Tôi cũng thường xuyên nhớ về cây ổi mình hay trèo trong những buổi chiều khói bếp bắt đầu len qua mái ngói và tìm những quả chín trái mùa bé tí còn sót lại trên cành. Ngồi trên cây, đoán xem mẹ đang nấu món gì trong bếp, nhìn làn khói mỏng mảnh uốn lượn mềm mại trong không gian và tưởng tượng đó là chiếc áo dài tha thướt của một cô tiên sắp sửa bay lên trời.
Ở đấy, tôi có thể để cho những suy nghĩ miên man bay đi mãi cùng màu khói đang lả lướt trong gió chiều cho đến tận lúc nó hòa vào đám mây màu cũng mang màu khói trên bầu trời cao. Tôi luôn ngồi như thế chờ mẹ nấu cơm trong lúc gặm ổi và “tăm tia” xem nhà ai trong xóm còn chưa nhóm bếp, điều này do chính ngọn khói la đà trên mỗi mái bếp đã nói với tôi. Nhìn khói nhưng mắt thì vẫn phải hóng ra con đường sang làng bên cạnh, nơi mà bà chị “phát xít” của tôi sẽ đi học về. Nếu thấy cái dáng quen thuộc ấy, tôi sẽ phải ngay lập tức tụt xuống và đi quét nhà quét sân hay rửa cốc chén.
Chỉ khi nào xong xuôi hết mọi việc tôi mới có thể yên trí leo lên cành ổi đếm những ngọn khói đang bay lên từ gian bếp nhà hàng xóm, vểnh mũi đoán xem chiều nay nhà ai đang chưng mắm, kho cá, nấu canh dưa hay nướng món cá mối khô mặn trên than hồng thơm điếc mũi.
Thỉnh thoảng, tôi thường có ý nghĩ, khói làm cho mùi vị của đồ nướng thơm ngon hơn thì phải. Nhiều món bây giờ nướng bằng nồi chiên không dầu hay lò nướng đắt tiền, có bói cũng không tìm ra mùi thơm đặc biệt của khói. Nhưng giờ, đất chật người đông, khói bếp chẳng còn phù hợp với những không gian sáng choang và hiện đại nữa. Thậm chí, khói còn khiến cho tiếng còi báo động vang lên, nhắc nhở người ta về một mối lo lắng không phải mơ hồ.
Vẫn biết vậy, chiều nay trong khói lam bảng lảng ven một khu vườn yên tĩnh, tôi đột nhiên thấy nhớ nhiều về một gian bếp ấm áp thơm nồng khói rơm xưa cũ. Thấy áo mình, tóc mình và cả đôi tay còn vương mùi khói, thấy mình trong một xóm nghèo, cứ chiều đến lại đếm những ngọn khói la đà trên mái ngói. Đếm khói để biết rằng chủ nhân của mỗi căn bếp nhỏ đã kịp về nhà nấu bữa tối hay chưa, vì nhìn thấy khói là nhìn thấy sự ấm áp của mỗi căn nhà. Vắng khói, những căn bếp nghèo sẽ buồn biết mấy. n