Kinh tế

Tiềm năng tín chỉ carbon từ hệ sinh thái ven biển

NAM ANH 26/08/2024 14:00

Mặc dù nước ta có tiềm năng lớn tín chỉ carbon từ hệ sinh thái ven biển nhưng thực tế thị trường này còn mới. Nhà đầu tư muốn mua tín chỉ carbon chất lượng cao vẫn gặp khó khăn về các chính sách, quản trị và cần hoàn thiện cơ sở pháp lý.

anhbaitren.jpg
Rừng ngập mặn Cát Bà. Ảnh: N.A.

Tiềm năng từ thị trường carbon xanh dương

Chia sẻ thông tin tại buổi tọa đàm về thị trường carbon từ hệ sinh thái rừng ven biển mới đây, TS Trần Đình Lý - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm TPHCM cho biết, các hệ sinh thái ven biển và đất ngập nước bao gồm rừng ngập mặn, đầm lầy, thủy triều, cỏ biển… đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Không những vậy, hệ sinh thái này còn đảm bảo sinh kế và an sinh xã hội cho cộng đồng ven biển. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, rừng ngập mặn và đất ngập nước có khả năng hấp thụ carbon nhiều hơn so với hệ sinh thái khác.

Còn theo TS Phạm Thu Thủy, Trường Đại học Adelaide (Australia), vài năm trở lại đây, thị trường tín chỉ carbon rừng trên cạn không được nhắc đến nhiều mà các quốc gia trên thế giới, nhà đầu tư chuyển sang tín chỉ carbon xanh dương (tín chỉ carbon từ hệ sinh thái biển), sản phẩm đắt tiền và cao cấp của tự nhiên. Carbon xanh dương là carbon được lưu trữ tự nhiên trong các hệ sinh thái ven biển, thường là trong đất ngập nước, phổ biến nhất là rừng ngập mặn, đầm thủy triều và thảm cỏ biển.

Các hệ sinh thái biển được đánh giá là một giải pháp có thể khai thác khả năng thu giữ carbon tự nhiên và sử dụng vào việc cô lập khí thải thay vì thải chúng vào khí quyển. Điều này tạo ra những tác động tích cực về mặt kinh tế và môi trường đối với cộng đồng ven biển, đồng thời góp phần giảm thiểu biến đổi khí hậu trên toàn cầu.

Đáng chú ý, giá bán tín chỉ carbon rừng ngập mặn cao hơn rất nhiều so với dự án rừng trên cạn. Carbon rừng trên cạn có giá 5 - 10 USD/tín chỉ. Trong khi đó, vào năm 2022, trên toàn cầu có 6 dự án tín chỉ carbon rừng ngập mặn được đấu thầu, giá đấu thầu thấp nhất là 35 USD/tín chỉ. Bà Thủy nhận định, Việt Nam có nhiều ưu thế phát triển thị trường carbon trong lâm nghiệp.

Theo đó, tiềm năng thị trường carbon có giá trị cao; diện tích và chất lượng rừng ngập mặn, rừng trên cạn tiềm năng; có thể tiến hành nhiều loại hình dự án (trồng mới và tái trồng rừng).

Nói thêm về tiềm năng tín chỉ carbon rừng ngập mặn, TS Vũ Tấn Phương - Giám đốc Văn phòng chứng chỉ quản lý rừng bền vững thuộc Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, ở nước ta, rừng ngập mặn khoảng 15.000 hecta, 80% phân bố ở phía Nam.

Bãi triều khoảng 18.000 hecta, chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Cỏ biển khoảng 15.637 hecta với 66% ở khu vực đảo Phú Quốc (Kiên Giang). Trữ lượng carbon ở rừng ngập mặn cao với khoảng 8,7 triệu tấn carbon (chiếm 1,4% tổng trữ lượng carbon trong hệ sinh thái rừng). Như vậy, hệ sinh thái rừng Việt Nam có tiềm năng khoảng 612 triệu tấn carbon.

Cần sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý

TS Trần Đình Lý nhấn mạnh: Với tiềm năng lớn trong việc giảm thiểu biến đổi khí hậu, các hệ sinh thái ven biển đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trên thị trường carbon toàn cầu. Tuy nhiên, thị trường carbon xanh từ hệ sinh thái này vẫn chưa được khai thác và phổ biến rộng rãi. Bởi việc khai thác tiềm năng này gặp nhiều thách thức trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững các hệ sinh thái rừng ven biển. Ngoài ra, việc thiếu thông tin và sự hạn chế trong giao dịch tín chỉ carbon xanh cũng gây khó khăn trong việc phát triển các dự án carbon hiệu quả.

Đồng quan điểm, TS Vũ Tấn Phương cho rằng, việc phát triển thị trường carbon trong lĩnh vực lâm nghiệp đang gặp nhiều thách thức. Cụ thể là những khung pháp lý, hướng dẫn chưa chi tiết và rõ ràng về đầu tư, quyền carbon, chia sẻ lợi ích giữa các bên. Các dữ liệu sử dụng trong đo đạc, báo cáo phát thải; thông tin về đầu tư, kết nối doanh nghiệp vẫn còn hạn chế.

Việt Nam cần có chiến lược, kế hoạch về phát triển lâm nghiệp gắn với tạo tín chỉ carbon rừng: tiềm năng, vùng ưu tiên, khách hàng, cơ chế, chính sách, giải pháp khuyến khích, thu hút đầu tư; đảm bảo năng lực kỹ thuật trong toàn bộ quá trình thực hiện, đặc biệt là năng lực về xây dựng dự án, đo đạc, báo cáo và thẩm định. Phải đảm bảo minh bạch, công khai thông tin, dữ liệu phục vụ cho đo đạc, báo cáo và thẩm định, chia sẻ lợi ích, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn môi trường xã hội. Đồng thời, cần tối ưu hóa nguồn lực đầu tư thông qua lồng ghép các chương trình, dự án, đa dạng thị trường carbon, đảm bảo hiệu quả thực hiện...

Liên quan tới những nỗ lực tăng cường chính sách quản lý rừng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Quốc Trị nêu bật vai trò quan trọng từ việc nâng cao hiệu quả và giá trị kinh tế của rừng ngập mặn ven biển ở Việt Nam. Đồng thời kêu gọi các tỉnh ven biển tăng cường nỗ lực bảo vệ, cũng như trồng rừng ngập mặn để bảo vệ hệ sinh thái đồng thời thu tín chỉ carbon. Bên cạnh đó, bộ cũng sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị chuyên môn hoàn thiện cơ chế chính sách lâm nghiệp trình Chính phủ phê duyệt và xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật.

Theo TS Trần Đình Lý, Việt Nam đã có những chính sách tiên tiến nhằm bảo vệ, mở rộng, nâng cao chất lượng rừng và hệ sinh thái ven biển. Hiện nay, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu cao trong việc phát triển thị trường carbon rừng, bao gồm cả carbon xanh để tạo ra cơ chế tài chính bền vững, hỗ trợ các chính sách giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đó là một trong những ưu thế rất lớn của Việt Nam.

NAM ANH