Hai 'siêu lừa' nhận tiền tỷ để 'chạy' dự án
Giả có mối quan hệ với cán bộ cấp cao, Thùy và Tiến hứa hẹn giúp doanh nghiệp chạy dự án để chiếm đoạt tài sản.
Ngày 5/9, TAND TP Hà Nội đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Đình Thùy (SN 1976, ở quận Hoàng Mai, Hà Nội) và Vi Hồng Tiến (SN 1976, ở tỉnh Bắc Giang) lần lượt mức án 13 và 12 năm tù về tội ''Lừa đảo chiếm đoạt tài sản''.
Trước đó, năm 2019, Công an TP Hà Nội nhận được đơn của nhiều người tố giác Nguyễn Đình Thùy có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc nhận tiền ''xin'' dự án cho doanh nghiệp.
Vào cuộc điều tra, cơ quan chức năng xác định, hai bị cáo Thùy và Tiến đều là lao động tự do, không có mối quan hệ, không có khả năng giúp doanh nghiệp nhận thầu các dự án đầu tư công nhưng thường xuyên tung thông tin có quan hệ với cán bộ cấp cao, có thể can thiệp để xin dự án cho doanh nghiệp. Cá nhân, doanh nghiệp nào muốn nhận được dự án thì Thùy sẽ xin giúp nhưng phải đưa chi phí.
Tin tưởng Thùy, các bị hại đã đưa tiền để "nhờ vả". Quá trình điều tra xác định, từ năm 2017 đến 2018, Thùy đã chiếm đoạt của 4 bị hại hơn 5 tỷ đồng; Tiến chiếm đoạt của một bị hại 40.000 USD.
Trong đó có trường hợp ông Dương Tuấn Kh. (Hà Nội). Ông Kh. quen biết với bị cáo Thùy và được Thùy giới thiệu bản thân công tác ở Bộ Giao thông Vận tải. Thùy còn nói hiện Bộ này đang trình Chính phủ chấp thuận đầu tư nhiều dự án giao thông, sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ còn dư.
Ông Kh. đã nhờ bị cáo Thùy xin cho Công ty của ông trúng thầu dự án Xây dựng tuyến tránh trung tâm thị trấn Ea Drăng, huyện Ea H'Leo, tỉnh Đắk Lắk với tổng mức đầu tư 300 tỷ đồng.
Từ tháng 6/2017- 12/2018, ông Kh. nhiều lần đưa tiền cho ông Thùy tổng số 105.000 USD và 150 triệu đồng. Sau khi nhận tiền, bị cáo không xin được cho doanh nghiệp trúng thầu và cũng không trả lại tiền cho người bị hại.
Tháng 5/2018, bị cáo Thùy tiếp tục giới thiệu về các dự án ở Bộ NN&PTNT và đưa cho ông Kh. xem văn bản danh sách dự án. Khi ông K. nhờ bị cáo xin cho trúng thầu thi công dự án nạo vét lòng hồ Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương), bị cáo đã yêu cầu chi phí là 50.000 USD.
Ông Kh. rủ bạn là ông Nguyễn Văn S. (ở tỉnh Đắk Lắk) cùng làm dự án thi công nạo vét lòng hồ Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương, do Thùy đưa ra với mức chi phí 50.000 USD. Tuy nhiên, sau khi nhận tiền, Thùy không xin được dự án, cũng không trả tiền.
Còn bị cáo Tiến quen biết bị cáo Thùy từ năm 2017. Khi đó, Tiến giới thiệu với Thùy rằng, Tiến đang công tác ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, có nhiều mối quan hệ thân thiết với lãnh đạo Bộ nên có thể nhờ can thiệp để xin được dự án.
Tiến giới thiệu với Thùy là bản thân đang công tác ở Bộ NN&PTNT, có nhiều mối quan hệ thân thiết với lãnh đạo Bộ, có thể nhờ can thiệp để xin được dự án. Tiến trao đổi với Thùy, nếu có doanh nghiệp nào xin dự án thì Tiến sẽ nhờ lãnh đạo Bộ để giao dự án cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp trúng thầu phải chi hoa hồng 3-5% tổng mức đầu tư của dự án. Số tiền này, Tiến sẽ chia cho Thùy.
Dù không biết chắc chắn Tiến có thể xin được dự án hay không, nhưng Thùy đã đặt vấn đề với ông N. (ở Hà Nội) về việc có cửa "chạy dự án".
Sau đó, ông N. đã nhờ bị cáo Thùy xin cho Công ty Thành An (của chị họ ông N.) trúng thầu dự án sửa chữa, nâng cấp hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải và dự án sửa chữa nâng cấp hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà. Bị cáo yêu cầu ông N. đưa hồ sơ năng lực công ty và nộp chi phí xin dự án là 20.000 USD/dự án.
Thùy cam kết, sau 10 ngày sẽ dẫn ông N. đến gặp lãnh đạo Ban Quản lý dự án của Bộ NN&PTNT. Nếu không xin được dự án, Thùy sẽ trả lại tiền.
Do tin tưởng nên ông N. đã đưa cho Thùy 40.000 USD. Mỗi lần đưa tiền, ông N. đều ghi âm, ghi hình cuộc trao đổi giữa hai người. Về phía Thùy, sau khi nhận tiền của ông N. đã đưa hết cho Tiến.
Quá thời hạn cam kết, thấy Thùy không thực hiện lời hứa nên ông N. yêu cầu trả lại tiền nhưng Thùy không trả. Vì vậy, ông N. đã làm đơn tố cáo Thùy.