Đồng bằng sông Cửu Long: Thách thức về an ninh nguồn nước
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa, vựa trái cây, vựa thủy sản của cả nước, nhưng hiện vùng này đối mặt với thách thức về an ninh nguồn nước. Điều này đã và đang ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân và hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Khu vực ĐBSCL là phần cuối của lưu vực sông Mê Kông, với tổng diện tích 39.400km2, chiếm khoảng 12% diện tích cả nước. Dân số toàn vùng khoảng 18 triệu người, trong đó 75% người dân hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Chủ động nguồn nước có vai trò quan trọng
Theo báo cáo của Cục Thủy lợi (Bộ NNPTNT), thời gian qua, mặc dù Trung ương và địa phương đã có nhiều nỗ lực trong việc quản lý điều hòa các nguồn nước sẵn có, các hoạt động phát triển, đô thị hóa, công nghiệp hóa, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và thói quen sử dụng nước chưa tiết kiệm của người dân đã và đang tạo sức ép rất lớn đến cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, thủy sản, tiêu thoát nước cho đô thị, xử lý nước thải. Riêng với khu vực ĐBSCL, đây là vựa lúa, vựa thủy sản, vựa trái cây lớn nhất cả nước, thế nhưng đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng liên quan đến an ninh nguồn nước.
Cụ thể, riêng mùa khô 2023 - 2024, hạn hán và xâm nhập mặn đã khiến 1.189ha lúa giảm năng suất, 43ha lúa (ngoài kế hoạch) tại tỉnh Sóc Trăng bị mất trắng; khoảng 73.900 hộ dân bị ảnh hưởng thiếu nước sinh hoạt. Bên cạnh đó, ĐBSCL có 2.059 điểm sụt lún (tương đương 51km chiều dài đê, đường giao thông nông thôn); 686 vị trí sạt lở bờ sông (chiều dài 591,3km) và 57 vị trí sạt lở bờ biển (chiều dài 203,2km).
Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam dự báo diễn biến thiên tai vùng ĐBSCL trong bối cảnh mới phức tạp hơn, khó lường hơn do tác động của biến đổi khí hậu và các tác động từ khai thác tài nguyên ở thượng nguồn sông Mê Kông và phát triển nóng về kinh tế - xã hội của vùng.
Một số chuyên gia nhìn nhận, hạn hán và xâm nhập mặn làm suy giảm nguồn nước sinh hoạt và sản xuất, đặc biệt tại các tỉnh ĐBSCL. Nhiều hệ thống thủy lợi vẫn chưa hoàn chỉnh, hệ thống cống không có tính chủ động trong điều tiết hoặc kiểm soát nguồn nước, hệ thống trạm bơm điện còn thiếu so với nhu cầu, có khoảng gần 1 triệu hộ dân có nguy cơ thiếu nước sinh hoạt, trong đó có nhiều khu vực không thể cấp nước tập trung.
Theo ông Trần Minh Tuấn - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thủy nông và Cấp nước (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam), tổng nhu cầu phục vụ nước sinh hoạt cho dân số vào khoảng 1 tỷ m3. Khai thác nước ngầm quá mức dẫn đến hệ lụy về sụt lún, nước ngầm đang bị suy thoái, nhiễm phèn. Viện khoanh vùng thực hiện công tác phát triển thủy lợi, ưu tiên tạo vùng nước mặt để phục vụ nguồn nước sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp. Những khu vực khó khăn như Cà Mau, Bạc Liêu khi nguồn nước mặt chưa đến, phải sử dùng nước ngầm, Viện khuyến nghị Nhà nước nên đầu tư các hồ chứa nước phân tán, cục bộ, quy mô nhỏ giúp tận dụng lượng mưa lớn, điều tiết nguồn nước phục vụ mùa khô. Khuyến cáo người dân vùng khó khăn, ven biển, đầu tư bể, hồ chứa nước ở các chất liệu khác.
Ông Tuấn cho rằng, do vị trí đặc điểm cuối nguồn, hằng năm dòng chảy về ĐBSCL đạt hơn 400 tỷ m3. Tuy nhiên, vùng nước nội sinh chỉ chiếm 5% (hơn 22 tỷ m3), vậy vấn đề xuất hiện lũ, hạn mặn trong mùa khô đều phụ thuộc vào nguồn nước từ thượng lưu.
Đồng quan điểm, ông Đinh Thanh Mừng - Phó Trưởng phòng An ninh nguồn nước (Cục Thủy lợi), cho rằng, đợt hạn mặn lịch sử 2015-2016 và 2019-2020 khiến chúng ta càng thấy rõ hơn vai trò của chủ động nguồn nước. Với đặc điểm là quốc gia nằm ở hạ lưu 2 lưu vực sông lớn quan trọng (sông Hồng và sông Mê Kông), Việt Nam vẫn đang đối mặt trước nguy cơ phải gánh chịu nhiều tác động bất lợi từ các chương trình, dự án phát triển trên dòng chính ở phía thượng nguồn.
Theo ông Mừng, giai đoạn tới cần tiếp tục mở rộng hợp tác đi vào chiều sâu, toàn diện, thúc đẩy cách tiếp cận tổng thể, đa ngành, cân bằng giữa phát triển kinh tế với xã hội và môi trường, nhằm khai thác tốt và phát huy hiệu quả các mối quan hệ lợi ích đan xen, sẵn sàng cho mọi kịch bản phát triển lưu vực khi chúng ta nằm ở vị trí cuối nguồn các lưu vực sông lớn.
Theo ông Mừng, giải pháp là bảo đảm số lượng, chất lượng nước cấp cho sinh hoạt trong mọi tình huống, đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; bảo đảm mọi người dân được tiếp cận sử dụng nước. Cùng với đó là chủ động tích trữ, điều hòa nguồn nước; ứng phó hiệu quả, giảm thiểu rủi ro thiệt hại từ các thảm họa, thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm sức khỏe, đời sống, sản xuất của người dân; bảo vệ môi trường, khắc phục tình trạng suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
Chủ động nguồn nước có vai trò đặc biệt quan trọng, các chuyên gia cũng kiến nghị cần hoàn thiện quản lý tổng hợp như quản lý sản xuất, dự báo thị trường, nâng cao dự báo nguồn nước xâm nhập mặn, hiện đại hóa công tác giám sát… Bên cạnh vai trò của Nhà nước, từ phía người dân cần chủ động với các giải pháp tích nước, tưới tiết kiệm, phòng chống hạn mặn.
Về giải pháp về khoa học, công nghệ trong việc sử dụng nước hợp lý, hiệu quả, ứng dụng công nghệ hiện vẫn chưa đầy đủ, thiếu thiết bị hỗ trợ dẫn đến sự vận hành theo cảm quan, hiệu quả hạn chế. Như vậy, cần tiếp tục phổ biến tới người dân ứng dụng khoa học công nghệ trong tưới tiết kiệm nước, hiệu quả trong các vùng trồng như trồng cây ăn trái…
Cần giải pháp bền vững
Khi nói về an ninh nguồn nước, GS.TS Đào Xuân Học - nguyên Thứ trưởng Bộ NNPTNT, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, cho rằng Việt Nam không phải là quốc gia có nguồn nước dồi dào, mà chỉ ở mức trung bình cao của thế giới. Tuy nhiên, 63% lượng nước từ ngoài lãnh thổ đổ vào nên chịu tác động rất lớn từ yếu tố thượng nguồn các lưu vực sông quốc tế, đặc biệt là sông Hồng và sông Cửu Long.
Ông Trần Minh Tuấn - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thủy nông và Cấp nước (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam) cho biết, do vị trí đặc điểm cuối nguồn Mê Kông, hằng năm dòng chảy về ĐBSCL đạt hơn 400 tỷ m3. Tuy nhiên, vùng nước nội sinh chỉ chiếm 5% (hơn 22 tỷ m3). Do đó, vấn đề xuất hiện lũ hay hạn mặn ở ĐBSCL đều phụ thuộc vào nguồn nước từ thượng lưu.
Tại Cà Mau, theo tính toán của Chi cục Thủy lợi Cà Mau, vào mùa mưa, Cà Mau có lượng mưa đến 2.400mm, cao nhất ĐBSCL, nhưng vào mùa khô, địa phương cũng là nơi chịu khô hạn bậc nhất. Để giải quyết các khó khăn về nguồn nước vào mùa khô cho các địa phương như Bạc Liêu, Cà Mau, ông Trần Minh Tuấn cho rằng, cần ưu tiên tạo vùng nước mặt để phục vụ nguồn nước sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp. Nên đầu tư các hồ chứa nước phân tán, cục bộ, quy mô nhỏ giúp tận dụng lượng mưa lớn, điều tiết nguồn nước phục vụ mùa khô. Cần khuyến cáo người dân vùng khó khăn, ven biển, đầu tư bể, hồ chứa nước bằng chất liệu khác.
Về giải pháp lâu dài, ông Trần Duy An - Phó Trưởng phòng Quy hoạch Thủy lợi ĐBSCL (Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam) cho biết, theo Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thoát lũ đến năm 2030 tầm nhìn năm 2050, vùng thượng nguồn sẽ cần kiểm soát lũ, cải tạo các trục thoát lũ, và ứng phó với các tình huống bão lũ cực đoan. Hoàn thiện hệ thống thủy lợi, xây dựng các hệ thống chuyển nước để cung cấp nước cho các khu vực xa nguồn. Nghiên cứu các giải pháp kiểm soát mặn trên dòng chính sông Mê Kông. Xây dựng hệ thống thủy lợi phục vụ sinh hoạt, nâng cấp tuyến đê biển và ứng dụng công nghệ thu trữ nước trong mùa khô.
Tầm nhìn đến năm 2050, ĐBSCL sẽ ứng dụng các giải pháp hiện đại để cấp nước cho nuôi trồng thủy sản, các hệ thống cấp thoát tách rời cho một số khu vực có điều kiện thuận lợi. Đồng thời, các giải pháp tận dụng nguồn nước biển ngoài khơi để phục vụ sản xuất cũng sẽ được triển khai. ĐBSCL sẽ xây dựng 5 nhà máy cấp nước vùng với tổng công suất 1,5 triệu m3/ngày đêm, sử dụng nguồn nước từ dòng chính Mê Kông. Các nhà máy này được đặt tại vị trí không bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn, bảo đảm đủ nguồn nước phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất.
Phải có được các công trình phục vụ đa mục tiêu
Theo ông Tô Văn Thanh - Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, về đầu tư xây dựng trong giai đoạn 2026-2030, các đơn vị của Bộ NNPTNT đang đề xuất danh mục và kinh phí cho xây dựng các công trình liên quan đến khai thác nguồn nước và phòng, chống thiên tai ở ĐBSCL. Mặc dù vậy, vấn đề này vẫn còn phụ thuộc vào nguồn lực cũng như quá trình phê duyệt danh mục của Nhà nước để phân bổ kinh phí cho ĐBSCL trong thời gian tới.
Tuy nhiên, trên cơ sở đề án đang xây dựng về đối phó với 5 vấn đề lớn của ĐBSCL gồm sạt lở, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn và sụt lún thì các giải pháp đưa ra phải giải quyết được nhiều vấn đề. Ví dụ như giải pháp trữ nước, tiết kiệm nước để phục vụ sinh hoạt thì sẽ góp phần giảm khai thác nước ngầm, giảm sụt lún.
Để bảo vệ bờ sông, bờ biển thì cần tích hợp giải pháp về phát triển kinh tế bằng cách đầu tư hệ thống công trình bảo vệ bờ để thích ứng với nước biển dâng, từ đó giúp tái tạo được hệ thống rừng ngập mặn.
Ngoài ra, cần đầu tư tổng thể các công trình để đảm bảo duy trì 3 phân vùng sinh thái của ĐBSCL: Ngọt, Ngọt lợ, Lợ mặn. Từ đó, đảm bảo cho việc phát triển kinh tế, phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
"Với cùng một chi phí, chúng ta phải có được các công trình phục vụ đa mục tiêu, phục vụ đa ngành, phát huy tối đa hiệu quả. Đó là quan điểm xuyên suốt của đề án" - ông Tô Văn Thanh khẳng định.
P.V