Nhà thơ Hồng Thanh Quang: Tôi làm thơ hồn nhiên, như hít thở khí trời…
Trong khi trên mạng xã hội ồn ào tranh cãi nhau về thơ, trong đó có không ít những lời hạ thấp vai trò của thơ ca trong đời sống xã hội, nhà thơ Hồng Thanh Quang vẫn giữ phong thái như thường thấy, ông đều đặn đưa thơ lên trang cá nhân. Ở đó, ông thể hiện một tinh thần trọng thị thơ ca đúng với vai trò của nó trong đời sống tinh thần của nhân loại từ xưa tới nay.

PV: Anh có một tuổi thơ thật đẹp trên con phố Hàng Đào, cùng miền quê hồn hậu, những ký ức, kỷ niệm nào đưa anh đến với tình yêu thơ ca?
HỒNG THANH QUANG: Thực ra tôi cũng không biết là tuổi thơ tôi có đẹp hay không, vì như những gì tới hôm nay tôi còn nhớ, tuổi thơ tôi cũng đã trải qua vô số sự trên đời, mà đã có rất lắm sự trớ trêu, tủi thân, đổ vỡ… Ký ức của tôi về tuổi thơ không phải là những thước phim liền mạch mà là một chùm những mảnh vỡ đứt đoạn và trong đó có rất nhiều thứ có vẻ như không vui…
Tuy nhiên, tôi vẫn nhớ rằng, lần đầu tiên mà tôi cần tới những câu thơ là khi tôi học lớp 3. Ở giai đoạn đó, tôi rất thích một cô bạn ở cùng lớp nhưng không biết cách làm thế nào để nói cho bạn ấy biết cả. Cho tới một hôm, tôi được xếp ngồi cạnh cô bạn ấy trong một tiết học. Thế là tôi đánh bạo chép ra giấy câu ca dao mà tôi đã đọc được: “Thuyền ơi có nhớ bến chăng, Bến này một dạ khăng khăng đợi thuyền”, rồi để lên mặt bàn cho cô ấy nhìn thấy. Tất nhiên, là cô bé con mới lớp 3 thì làm sao đọc được tình ý trong lời ca dao đó, khiến tôi thất vọng ê chề… Đó cũng là lúc tôi chợt hiểu ra sự bất lực của thi ca trong việc kết nối tình cảm của con người…
Vì sao anh lựa chọn thơ để biểu đạt những tư tưởng bên trong mình?
Có lẽ không phải tôi chọn thơ mà là tự nhiên thơ xuất hiện như một phương thức thích ứng nhất để bộc lộ tâm tính của mình. Nhìn lại, tôi đã không chỉ làm thơ mà còn đã từng viết tới cả nghìn bài báo, với cả trăm bút danh, về đủ mọi chuyện trên đời… Trong những bài viết ấy, ít nhiều đều thể hiện những suy nghĩ, những góc nhìn, những cảm xúc của tôi… Thế nhưng, có lẽ thơ là thứ khiến tôi bộc lộ rõ nhất, đủ nhất, đa chiều nhất bản thể của mình. Tôi không dám lạm nhận nhưng tôi nghĩ, với những bài thơ đã viết, tôi có lẽ đã là người sinh ra để phải làm nhà thơ một cách mặc định, thuần chất và vận hạn nhất. Thơ có thể đã cho tôi nhiều khoái cảm nhưng như bây giờ tôi mới nhận thấy, đã tước đi của tôi rất nhiều cơ hội để có thể làm một người bình thường thành công như không ít bạn bè đồng trang lứa và cùng hoàn cảnh. Nhìn từ góc độ này, nếu không phải làm nhà thơ, có lẽ tôi đã không khiến những người thân của tôi phải khổ sở, lao lung và vất vả như thế.
Thơ của anh, là những cảm xúc sâu thẳm, được neo đậu bằng các triết lý đầy tính nhân sinh qua lắng đọng hình ảnh thân thương quen thuộc?
Tôi làm thơ một cách hồn nhiên, như hít thở khí trời vậy. Có thể, đó là thơ của một người duy cảm, nhưng là một người duy cảm rất chịu khó học hành và suy nghĩ.
Mỗi câu thơ, đã đến với anh vào những lúc nào?
Vào bất cứ lúc nào. Kể cả trong giấc mơ… Tôi đã từng có những giấc mơ mà trong đó tôi đã hoàn thành những bài thơ mà lúc đó tôi cảm thấy là rất hay. Tuy nhiên, khi tỉnh giấc thì tôi lại không thể nào nhớ lại nổi những bài thơ mà có lẽ có thể trở thành hay nhất của tôi… Tiếc hùi hụi, nhưng cũng đành phải chịu…
Hoàn cảnh nào cho sự ra đời mỗi bài thơ của anh?
Hoàn cảnh nào cũng có thể có thơ. Có những bài thơ xuất hiện như một sự chiêm nghiệm quá khứ. Có những bài thơ nảy sinh như phán quyết cho tương lai, “một lời là một vận vào”, có thể khó nghe, có thể dễ lọt tai, tùy tình huống cụ thể… Có bài thơ mình viết về mình nhưng lại bị người khác vơ vào là mình đang ám chỉ họ và tìm cách trả thù mình… Tóm lại, tôi là một nhà thơ nằm ngoài mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, với những câu thơ bất chợt sinh ra ngay cả trong những tình huống không thích hợp nhất… Chính tôi lắm lúc cũng không lý giải được là vì sao những câu thơ này hay những câu thơ lại lại bất chợt sinh ra như thế…

Các tác phẩm thơ của nhà thơ Hồng Thanh Quang: “Trữ tình.Thơ” (1993); “Không thể nào nguôi” (1996); “Mùa dịu dàng” (1999); “Chỉ là mơ thấy” (2003); “Sống như không thể chết” (2005); “101 bài thơ tình” (2009), “Nỗi buồn tốc ký” (2 tập, 2013); “Chút sen còn lại” (2021), “Cỏ bạc triền đê” (3 tập, 999 bài, 2021), “Thắp lửa” (2023)… Ông còn là dịch giả của hàng trăm bài thơ của các tác giả Nga và nhiều nước khác, được in trong các tập: “Linh cảm người đang yêu” (1995); “Gửi người con gái xa xôi” (thơ Konstantin Simonov, 1996); “Một góc thơ Nga” (2000) và nhiều tác phẩm báo chí, tiểu luận khác.
Thơ với anh, là sự tỏ bày, là rung cảm, là thế giới riêng, thơ có là nơi anh dựa vào để tiếp tục cho mình đời sống ý nghĩa?
Với tôi, thơ vừa là thế giới riêng của cá nhân tôi, vừa là nơi tôi có thể “chung đụng” với tâm hồn những người khác một cách tối ưu nhất. Không ít những bài thơ tôi chỉ viết về mình nhưng sau khi chúng xuất hiện, nhiều độc giả lại tới bảo tôi viết đúng như họ đã nghĩ, đã cảm thấy. Như thể là tôi đã “đi guốc” vào bụng của họ. Nói thật, tôi không muốn “đi guốc” hay “đi ủng” vào bụng ai cả. Nếu có chuyện gì đó tương tự xảy ra, tôi đi muốn “đi chân đất” vào đó, để có thể cảm nhận thực hơn, sát hơn những suy tư, cảm xúc của những người “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”…
Anh đã trải qua rất nhiều công việc khác nhau, nhưng rồi, danh xưng “nhà thơ” vẫn gắn bó với cuộc đời anh như định mệnh?
Thực ra, tôi không có danh xưng gì ngoài cái bút danh của mình. Đi đâu tôi cũng muốn xưng đơn giản là “Hồng Thanh Quang” thôi và rất vui nếu được nhận biết nhờ cái bút danh này. Nhà thơ hay nhà báo, sĩ quan hay cán bộ… chỉ là cách mà mọi người gọi tôi trong công việc hay cương vị xã hội nhất thời. Nhưng cũng phải nói đúng như bạn nói, danh xưng “nhà thơ” là thứ vẫn gắn bó với tôi nhất. Dù danh xưng này ở thời đại hiện nay không phải lúc nào cũng mang ý nghĩa tích cực đúng mức như mong muốn.
Sau tất cả, anh vẫn ngồi xuống, miệt mài chảy trôi tâm và hồn mình qua mỗi dòng thơ?
- Tôi từng được đào tạo một cách chu đáo để làm những việc khác, chắc chắn hơn, mang lại nhiều lợi ích thực tế hơn, được đánh giá cao trên phương diện xã hội. Nhưng như một định mệnh, tôi chỉ cảm thấy vui sướng nhất với những câu thơ. Và vì thế, tôi bắt buộc phải từ bỏ những con đường lập thân khác.
Qua thơ, anh tìm thấy những gì?
Mọi thứ, kể cả nỗi bất hạnh của mình.
Thơ có ý nghĩa với cuộc đời anh ra sao?
Rasul Gamzatov, nhà thơ anh minh của xứ sở Dagestan ở LB Nga, từng viết: “Thi ca, nếu không có người, tôi đã mồ côi!” Với tôi, thơ là một thái độ sống, một phương thức để đền đáp ân nghĩa đối với những gì mà mình đã được nhận trong cuộc đời này.
Điều gì đã thúc đẩy anh sáng tác và xuất bản liên tục các tập thơ, bộ thơ dày dặn?
Vì càng già thì nàng thơ càng hay tới với tôi hơn, bất chấp việc phụ nữ càng ngày càng lánh xa tôi hơn (cười). Trong hơn mười năm gần đây tôi đã viết rất nhiều thơ do cuộc sống xô đẩy bằng rất nhiều biến cố. Nhưng vì công việc làm báo nên tôi cũng ít in sách hơn. Nên khi quyết định in sách thì tôi đã làm luôn những tập dầy dặn. Gần như là viết được gì thì đưa vào tập hết. Như một cách để lưu bản thảo để gửi tới độc giả.
Qua thơ, anh mong muốn mang tới bạn đọc những điều gì?
Tôi muốn thơ tôi như những lá cao có thể giúp các tri kỷ áp lên để làm dịu đi những vết thương tinh thần hay tình cảm của họ. Hoặc cùng tôi nhận diện rõ hơn môi trường sống của mình trong những biến động xã hội không phải lúc nào cũng đơn giản hiện nay. Tôi không cầu danh lợi gì ở đây, thậm chí không cần được công nhận từ những ai không muốn làm việc đó. Chỉ đơn giản là tôi muốn lan tỏa những năng lượng thơ tích cực mà tôi nhận được từ cuộc sống để cùng sưới ấm lòng với những ai yêu thơ tôi, cần thơ tôi…
Anh có quan tâm tìm hiểu về kỹ thuật, cách thức biểu đạt, hay tất cả đều là sự tự nhiên khi anh tập trung kết nối với tầng rung cảm sâu xa từ bên trong mình?
Tất nhiên, làm việc gì thì cũng phải rèn giũa kỹ thuật, học hỏi, “luyện chưởng” không ngừng. Tuy nhiên, tôi muốn những bài thơ của tôi hiển hiện một cách hồn nhiên như nhiên, không bộc lộ bất cứ một dấu vết nào của những thủ pháp nghệ thuật mà vẫn làm rung động tâm hồn người đọc.
“Thơ là thứ khiến tôi bộc lộ rõ nhất, đủ nhất, đa chiều nhất bản thể của mình. Tôi không dám lạm nhận nhưng tôi nghĩ, với những bài thơ đã viết, tôi có lẽ đã là người sinh ra để phải làm nhà thơ một cách mặc định, thuần chất và vận hạn nhất” (Nhà thơ Hồng Thanh Quang).
Thơ của anh, có thể nói, dùng ngữ để tải đạo, tải tư tưởng?
Tôi có nhiều bài thơ như thế. Mà lắm khi, chúng rất giản dị thôi.
Như thế, rõ ràng, thơ ca có sức mạnh riêng biệt?
Kinh Thánh từng nói: Khởi thủy là lời. Ở cấp độ nghệ thuật, khởi thủy là thơ!
Nhưng không nhiều người đi theo con đường sáng tác thi ca, có đủ chiều sâu, rung cảm, kết nối để khơi dậy được vẻ đẹp biểu cảm và sức mạnh tư tưởng chạm đến trái tim, làm thay đổi ý thức của con người?
Ai cũng có quyền được thử nghiệm. Còn làm được đến đâu thì phải “cái quan định luận”. Nhà thơ không nên lập ngôn nhiều quá. Hãy để chính những bài thơ nói lên mọi thứ. Bác Lê Đạt từng bảo, chữ bầu nên nhà thơ! Chữ, chứ không phải một tờ A4 hay một tấm thẻ có đóng dấu ký tên nào khác. Tuy nhiên, cũng cần nói một điều này, nhà thơ dù tài năng đến mấy cũng đừng tự huyễn hoặc quá về quyền năng của mình và của thơ do mình viết ra. Có ai đó đã nói rằng, chỉ những dân tộc phải chịu vận hạn quá cay đắng mới sinh ra được các vĩ nhân. Tôi muốn thêm vào, và các nhà thơ lớn. Nhìn từ góc độ nào đó, các vĩ nhân hay các nhà thơ lớn không chắc đã giúp mang lại sự đỡ bất hạnh hơn cho chính dân tộc của mình. Vậy thì có gì mà họ có quyền vỗ ngực?! Trái lại, khi trở thành vĩ nhân hay nhà thơ lớn rồi thì càng cần phải cảm thấy mình mặc nợ vô bờ bến, nợ không bao giờ trả hết được, đối với mảnh đất, đối với dân tộc đã sinh ra mình.
Ngày nay, nhìn nhiều bình luận thiếu thiện cảm về thơ, và nhà thơ… để thấy, ở một góc nào đó, thơ ca đang dần đi vào trong khoảng mờ. Chính vì thế, nhiều năm qua, Ngày Thơ Việt Nam trở thành điểm nhấn, là ngày hội tôn vinh thành tựu thơ ca, động viên tinh thần các thi nhân?
Xã hội ngày nay vẫn cần những bài thơ hay như trước. Còn thơ dở thì ở thời nào cũng bị chê, chứ không chỉ ở thời nay. Còn đối với nhà thơ, như những gì tôi cảm thấy, vẫn luôn luôn nhận được sự tôn trọng, yêu thương mặc định trong lòng mọi người. Và thậm chí là rất hay được thương cảm nữa… Chỉ có một số nhà thơ, có thể có tài năng nhưng do lầm lẫn với công danh và cư xử không đàng hoàng thì mới hay bị dư luận chê cười khiến trong làng thơ bây giờ hay xẩy ra những chuyện “con sâu làm rầu nồi canh”…
Với cá nhân tôi thì ngày nào cũng có thể là ngày thơ, nếu hôm đó tôi viết được thơ. Còn trên phương diện chung, tôi nghĩ việc lấy Ngày Rằm Tháng Giêng làm Ngày thơ Việt Nam là một sáng kiến thú vị, một hình thức lễ hội hấp dẫn đối với những người yêu thơ. Dù không phải nhà thơ nào cũng thích tới những ngày hội như thế… Mỗi nhà thơ sáng tạo trong cảnh ngộ của mình và không phải nhà thơ nào cũng có thể dễ dàng tìm được sự đồng cảm trong không khí lễ hội. Ở đây nên có cơ chế mở, không loại trừ lẫn nhau để mọi người đều có thể lựa chọn cách yêu thơ thích hợp với tâm tính của mình nhất. Cá nhân tôi, khi đến chỗ tập trung đông các nhà thơ, tôi luôn cảm thấy cô đơn hơn vì tôi thấy mình ít giống những người khác quá.

Vì sao thơ ca lại cần có một ngày thơ như vậy?
Có lẽ nói thế này thì đúng hơn, xã hội cần nhiều lễ hội, trong đó có lễ hội thơ. Không nên quá phóng đại ý nghĩa của những hoạt động xã hội như thế.
Trong thời đại công nghệ số này, vị trí của thơ đang ở đâu, thưa anh?
Tôi nghĩ rằng, một khi con người còn trái tim trong ngực thì ngay cả ở thời đại công nghệ số, con người vẫn cần thơ, do những nhà thơ tài năng thiên phú viết ra bằng suy tư và cảm xúc rất con người của mình. Tuy nhiên, thực sự bây giờ tôi không biết rằng, trong tương lai, những câu thơ do con người viết ra liệu có thể làm AI xúc động như những câu thơ mà AI viết ra đang làm một số người cảm thấy xúc động và thán phục…
Người dân của chúng ta vốn rất yêu thơ, nhưng dường như thơ có chất lượng lại ngày càng hiếm gặp trong dòng đời hối hả, mà cũng không ít áp lực như hiện nay?
- Chúng ta đang sống ở thời đại mà cái gì cũng nhiều, cả hàng hóa vật chất lẫn các sản phẩm tinh thần, vàng thau lẫn lộn. Vì thế nên việc tìm đúng những gì chất lượng cao rất không dễ. Tôi nghĩ đấy là một trong những nguyên nhân chính khiến không ít người trong chúng ta có ý nghĩ như bạn.
Việc định vị nền thơ ca Việt Nam trong dòng chảy nghệ thuật trong nước nói riêng và vị trí trong nền thơ ca thế giới nói chung, đặt ra vấn đề cần tìm tòi đổi mới như thế nào, thưa anh?
Từ thời thượng cổ tới nay, thi ca Việt vẫn ở đúng cái chỗ mà nó cần phải có, không dịch đi đâu một li một lai nào. Và tôi nghĩ rằng các nhà thơ cũng như những người yêu thơ không cần phải bận tâm về vị trí đó mà trước hết nên quan tâm hơn tới việc trau dồi đời sống và tâm hồn mình để tìm thấy thêm nhiều năng lượng cho chính mình từ thơ. Còn về bản đồ thi ca thế giới nói chung thì theo tôi biết, chưa ai chưa bao giờ lập ra cái thứ gì đó tương tự như thế. Mỗi dân tộc tự xây dựng cho mình một nền thi ca thích hợp với cốt cách tâm hồn của mình. Trong vấn đề này thì không thể mang giải Nobel văn học ra dọa ai được…
Còn về cái mới trong thi ca thì lắm khi, cái mà ta tưởng là mới hôm nay chỉ là cái cũ đã bị quên lãng đã lâu ở đâu đó rồi. Tôi không rõ nên đổi mới thơ như thế nào, đây là việc của từng cá nhân nhà thơ, tùy theo trình độ, tâm tính và học vấn của họ, nhưng tôi biết rằng, đổi mới thi ca không thể là con đường của những sự tắc tị, bí hiểm và vô nghĩa, không phải là cách thay đổi quan điểm chính trị trong thơ, càng không phải là cách lòe thiên hạ bằng ánh sáng ma trơi của vô thức. Người làm thơ thì không nên viết như người máy!
Theo anh, để đảm bảo được chất lượng nghệ thuật, hình thức biểu đạt tư tưởng qua thơ, nhà thơ cần có những yếu tố gì?
Có thể dạy cách làm thơ nhưng không thể đào tạo nên nhà thơ được, Mỗi một nhà thơ lớn là một trường hợp cá biệt, vô tiền khoáng hậu, gần như là do giời chọn. Có một điều chung là, các nhà thơ lớn rất nhất quán cuộc sống với tín điều thơ của mình. Và rất chịu khó học hỏi, trau dồi tri thức.
Hiện nay, đưa thơ ca Việt ra với thế giới đang rất được quan tâm, theo anh, việc này có những thuận lợi và khó khăn gì, thưa anh?
Thơ Việt rất phong phú, tâm hồn Việt rất hấp dẫn, trí tuệ Việt rất đẳng cấp. Nhưng cần phải biết rằng, dịch thơ Việt ra các ngôn ngữ khác không chỉ cần những người giỏi ngoại ngữ mà còn cần những nhà thơ giỏi thông thạo ngoại ngữ. Dịch luôn là phản, trong thơ lại càng thế. Một bài thơ hay khi được dịch ra một ngôn ngữ khác phần nhiều chỉ duy trì được ý chứ còn cảm xúc và nghệ thuật thì hầu như biến mất. Cá nhân tôi nghĩ việc truyền bá thơ ra các ngôn ngữ khác gần như là một sự nghiệp vô vọng nên tốt nhất, hãy cứ làm thơ hay cho chính đồng bào mình thường thức.
Thông qua những tác phẩm thơ đã được chuyển ngữ, anh có thể nhận định vị trí thơ của Việt Nam đang ở đâu so với thế giới?
Tôi xin lỗi trước nhưng thực sự thì tôi không tin lắm vào công việc dịch thơ này theo cách nó đang diễn ra. Tôi chỉ muốn nhắc lại là đừng quá nghĩ về vị trí.
Theo anh, chúng ta cần làm những gì để thơ giữ được giá trị trong dòng chảy văn hoá nghệ thuật ngày nay?
Việc của tôi là tiếp tục làm thơ như đã và đang làm… Mong sao cho những bài thơ sắp viết sẽ không bị dở hơn những gì đã có…
Xin cảm ơn những chia sẻ của anh!
Nhà thơ Hồng Thanh Quang tên thật là Đặng Hồng Quang, sinh năm 1962 tại phố Hàng Đào (Hà Nội) nhưng quê gốc ở Phù Cừ (Hưng Yên). Năm 1979, anh thi đỗ Học viện Kỹ thuật Quân sự và được tuyển chọn đi du học tại Liên Xô (cũ). Năm 1986, tốt nghiệp kỹ sư vô tuyến điện tại Học viện Cao cấp Kỹ sư Thông tin Quân sự Ulianovsk (UVVKUS), về nước trở thành trung uý tại Tiểu đoàn thông tin 29 thuộc Binh đoàn Tây Nguyên. Năm 1988, Hồng Thanh Quang trở thành phóng viên báo Quân đội nhân dân. Năm 2000, anh bắt đầu cộng tác với báo An ninh thế giới. Năm 2007, nhà thơ Hồng Thanh Quang được bổ nhiệm là Phó Tổng Biên tập báo Công an nhân dân - chuyên đề An ninh thế giới và nhận quân hàm Đại tá An ninh nhân dân. Từ ngày 24-10-2014, anh trở thành Tổng Biên tập báo Đại Đoàn Kết cho đến ngày 31-12-2019 và nghỉ hưu tháng 4-2020.