Giải quyết ách tắc nguyên liệu xuất khẩu hải sản
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), kể từ sau khi Nghị định 37/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 26/2019 của Chính phủ về hướng dẫn Luật Thủy sản 2017 có hiệu lực (ngày 19/5/2024), xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Việt Nam có chiếu hướng không ổn định.
Bà Nguyễn Hà - chuyên gia thị trường cá ngừ của Vasep cho biết, tính riêng 3 tháng đầu năm 2025, giá trị xuất khẩu nhóm sản phẩm này của Việt Nam chỉ đạt gần 71 triệu USD, giảm 13% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu cá ngừ đóng hộp sang Mỹ, thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam chỉ tăng nhẹ 1% so với cùng kỳ. Ở chiều ngược lại, xuất khẩu sang châu Âu (EU) lại giảm 6% so với cùng kỳ.
“Tính tới thời điểm hiện tại, sau gần 1 năm Nghị định 37 có hiệu lực, doanh nghiệp (DN) và ngư dân đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và áp lực. Quy định hiện hành của Nghị định khiến cho nhiều lô cá ngừ nguyên liệu không thể có được giấy xác nhận nguyên liệu khai thác (S/C) và tạo ra nhiều hệ lụy cho chuỗi sản xuất - xuất khẩu. DN muốn ưu tiên sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước để tạo công ăn việc làm cho bà con ngư dân cũng không được” - bà Hà chia sẻ.
Nêu lý do, bà Hà cho hay, sau khi Nghị định 37 ban hành, việc khai thác hải sản, đặc biệt các sản phẩm cá ngừ đã gặp vướng mắc lớn liên quan đến quy định về kích thước tối thiểu được phép khai thác và qui định không trộn lẫn nguyên liệu hải sản có nguồn gốc từ khai thác nhập khẩu với nguyên liệu thủy sản có nguồn gốc từ khai thác trong nước vào cùng một lô hàng xuất khẩu. Những vướng mắc này đã tác động không nhỏ tới cuộc sống của ngư dân và hoạt động xuất khẩu của DN ngành hải sản trong thời gian qua. Cụ thể, lượng cá ngừ (vằn, vây vàng…) nguyên liệu mà ngư dân các tỉnh đã và đang khai thác được trong suốt gần 1 năm qua đều đang dồn ứ khối lượng lớn nhưng lại không thể xuất khẩu sang các thị trường mà Việt Nam có ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) như EU, Hàn Quốc, Nhật Bản... do không có xác nhận nguyên liệu khai thác của các cảng thì DN không thể làm được giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá ưu đãi theo các FTA này. Điều này gây ra nguy cơ đánh mất cơ hội chiếm lĩnh thị trường của ngành cá ngừ Việt Nam vào tay các đối thủ cạnh tranh khác như Ecuador, Mauritius, Philippines, Indonesia... những quốc gia đang tận dụng tối đa hạn ngạch và cơ chế trong các FTA (như EVFTA, ASEAN, RCEP…), hay các ưu đãi từ các hệ thống ưu đãi thuế quan, như GSP…
“Xuất khẩu cá ngừ sang Mỹ đang đối mặt nhiều khó khăn khiến các DN ngành hàng hải sản, cũng như cá ngừ đang rất hoang mang và lo ngại, mong ngóng từng ngày để có thể khơi thông nguồn nguyên liệu trong nước này giúp DN đa dạng hoá thị trường, giảm sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ” - bà Nguyễn Hà nói.
Nhiều DN xuất khẩu cá ngừ cũng cho biết, trong thời gian qua, để duy trì được thị phần và có được lợi thế về ưu đãi thuế quan tại khối thị trường EU, nhiều đơn vị đang phải gia tăng nhập khẩu cá ngừ từ các nước EU như Tây Ban Nha hay Pháp.
Theo số liệu thống kê của ngành Hải quan Việt Nam, nhập khẩu cá ngừ của Việt Nam từ Tây Ban Nha và Pháp trong 3 tháng đầu năm nay đang tăng “phi mã” lần lượt là 820% và 981% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, với giải pháp này các DN gặp nhiều rủi ro như chi phí gia tăng, vận chuyển xa…
Bởi vậy, theo bà Hà, để khơi thông xuất khẩu nhóm mặt hàng cá ngừ, giải quyết kịp thời các ách tắc lớn trong chuỗi, để ngư dân hoạt động bình thường trở lại, gia cố lợi thế cạnh tranh trước các quốc gia xuất khẩu khác, các DN đang rất mong chờ Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định 37.
Đánh giá về bức tranh xuất khẩu thủy sản nói chung, bà Lê Hằng - Phó Tổng thư ký Vasep cho biết, trong tháng 5 và 6/2025, xuất khẩu thủy sản sẽ có sự chuyển dịch mạnh mẽ trước khi thuế đối ứng của Mỹ chính thức áp dụng từ ngày 9/7/2025. Theo đó, DN Việt đang dồn lực đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ, đặc biệt là tôm và cá tra, để tận dụng giai đoạn chưa bị tăng thuế. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ có thể tăng 10-15% so với tháng 4/2025, nhờ các hợp đồng được ký kết gấp rút và chiến lược giảm giá để duy trì thị phần. Trong khi đó, xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc và ASEAN có dấu hiệu chững lại, chỉ tăng 3-5%. Các thị trường EU và Nhật Bản được kỳ vọng duy trì tăng trưởng ổn định ở mức 8-10%.