Kinh tế

Chuyển đổi xanh ngành lúa gạo

H.Hương 22/05/2025 08:10

Biến đổi khí hậu đang đặt ra thách thức nghiêm trọng đối với an ninh lương thực toàn cầu. Tuy nhiên, theo giới chuyên gia, Việt Nam có tiềm năng lớn để có thể trở thành tiên phong trong quá trình chuyển đổi xanh của ngành lúa gạo.

Thách thức lớn về môi trường

Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Năm 2024, xuất khẩu gạo đạt 9 triệu tấn, kim ngạch 5,66 tỷ USD, khẳng định vị thế quan trọng trong chuỗi giá trị nông nghiệp. Tuy nhiên, ngành cũng đối mặt thách thức lớn về môi trường. Theo Ngân hàng Thế giới, canh tác lúa chiếm 48% tổng lượng phát thải khí nhà kính và hơn 75% lượng phát thải khí metan (CH₄) của ngành nông nghiệp. Do đó, phát triển lúa gạo bền vững, ít phát thải là yêu cầu cấp thiết để thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu.

ảnh trên
Năm 2024, xuất khẩu gạo đạt 9 triệu tấn, kim ngạch 5,66 tỷ USD. Ảnh: Quang Vinh.

Tiên phong trong việc phát triển các mô hình sản xuất lúa xanh, Việt Nam đang thực hiện Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang triển khai Dự án VnSAT đã áp dụng kỹ thuật canh tác phát thải thấp trên 180.000 ha.

Theo ông Trần Ngọc Thạch - Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, chìa khóa để hiện thực hóa mô hình sản xuất lúa phát thải thấp nằm ở “quản lý nước hợp lý và xử lý rơm rạ hiệu quả”. Việc tưới tiêu tiết kiệm nước, giảm thiểu tối đa lượng nước ngập úng liên tục trên ruộng lúa không chỉ giúp giảm phát thải khí metan - một loại khí nhà kính có tiềm năng gây hiệu ứng nhà kính gấp nhiều lần so với CO2, mà còn giúp tiết kiệm nguồn tài nguyên nước quý giá. Đồng thời, việc biến rơm rạ từ một phụ phẩm đốt bỏ gây ô nhiễm môi trường thành nguồn phân bón hữu cơ hoặc các sản phẩm có giá trị khác không chỉ giảm phát thải mà còn tăng thêm thu nhập cho nông dân.

Ông Thạch cũng chỉ ra những thách thức trong việc triển khai mô hình đó là hạ tầng thủy lợi và địa hình canh tác. Mô hình hiệu quả ở nơi có thủy lợi tốt, nhưng gặp khó khăn tại vùng địa hình phức tạp, ruộng manh mún. Do đó, cần giải pháp đồng bộ về hạ tầng, quy hoạch đồng ruộng và sự vào cuộc của chính quyền để nhân rộng thành công.

Song ông Thạch cũng cho rằng, không nhất thiết phải tuân thủ 100% quy trình, miễn nông dân đạt 50-70% và vẫn giảm phát thải hiệu quả. Việc áp dụng cứng nhắc có thể gây khó khăn và giảm động lực của nông dân. Về lâu dài, cần đầu tư vào hệ thống thủy lợi, tưới tiêu thông minh và nghiên cứu các giải pháp sinh học như giống lúa, chế phẩm ức chế vi sinh vật sinh khí metan. Đây là những giải pháp căn cơ, bền vững, có tiềm năng ứng dụng rộng rãi cho cả nước.

Nhiều chuyên gia cũng chỉ ra việc triển khai chuyển đổi xanh ngành lúa gạo hiện mới mới tập trung vào nông dân, hợp tác xã, DN đầu vào và đơn vị nghiên cứu. Trong khi đó, các DN tiêu thụ và liên kết tiêu thụ lúa gạo quy mô lớn chưa được chú trọng đúng mức.

Nâng cao nhận thức và kiến thức của nông dân

Để thúc đẩy mô hình trồng lúa phát thải thấp, theo ông Cao Đức Phát - Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế (IRRI), yếu tố then chốt nằm ở việc nâng cao nhận thức và kiến thức của nông dân về lợi ích thiết thực của canh tác bền vững. Chỉ khi thấu hiểu giá trị, người nông dân mới tự nguyện và chủ động áp dụng các biện pháp hiệu quả.

Bên cạnh đó, việc tạo động lực kinh tế rõ ràng là vô cùng quan trọng. Nông dân cần thấy được lợi ích cụ thể, từ việc tăng năng suất, nâng cao thu nhập đến cải thiện chất lượng cuộc sống, để họ sẵn sàng chuyển đổi sang phương pháp canh tác mới. Cùng với đó, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đặc biệt là hệ thống giao thông và tưới tiêu thuận lợi, sẽ tạo điều kiện tối ưu để nông dân tiếp cận và triển khai các biện pháp canh tác bền vững một cách dễ dàng.

Sự vào cuộc mạnh mẽ với các chính sách hỗ trợ cụ thể từ Chính phủ và các tổ chức quốc tế đóng vai trò quyết định trong việc khuyến khích cả nông dân và DN tham gia vào các mô hình canh tác tiên tiến này.

Theo đánh giá chung, một trong những dấu ấn lớn nhất của mô hình thí điểm là sự chuyển biến mạnh mẽ về tư duy và nhận thức của cả hệ thống chính trị, người dân về mục tiêu phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo Việt Nam. Bà con nông dân đã từng bước thay đổi tập quán canh tác truyền thống, tiếp cận và áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến, thông minh. Tiền đề quan trọng này để hướng tới xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và nhân rộng quy trình canh tác lúa bền vững tại vùng ĐBSCL, đã hình thành các chuỗi sản xuất lúa gạo bền vững. Một số DN lớn tích cực tham gia, hỗ trợ nông dân từ khâu giống, vật tư đầu vào đến bao tiêu sản phẩm đầu ra, bước đầu xây dựng chuỗi liên kết lúa gạo bền vững, minh bạch.

H.Hương