Thực trạng rác thải nhựa trong sản xuất nông nghiệp
Hiện trạng lo ngại tới mức báo động về rác thải, rác thải nhựa phát sinh ra môi trường sống trong quá trình sản xuất nông nghiệp đang diễn ra với hơn 500.000 tấn nilon, gần 78.000 tấn vỏ bao bì phân bón, gần 34.000 tấn vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật thải ra môi trường mỗi năm… Một số giải pháp đã được triển khai tại nhiều địa phương.
Những con số báo động
Giới nghiên cứu môi trường xác định, nguồn phát thải gây ô nhiễm tới con người và môi trường sống của ngành sản xuất nông nghiệp đến từ hai nguồn chính: các phụ phẩm từ nông nghiệp và chất thải từ vật tư sử dụng trong nông nghiệp như nilon, vải bạt, lưới, dây nhựa, phao xốp, phao nhựa… và vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), vỏ bao bì phân bón. Theo đó, mỗi năm tổng lượng chất thải rắn (bao gồm chất thải nhựa) phát sinh ra môi trường mỗi năm, từ trồng trọt là khoảng 661.500 tấn/năm, gồm 550.000 tấn nilon, gần 78.000 tấn vỏ bao bì phân bón và gần 34.000 tấn vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật. Theo nhận định của giới chuyên gia, thì đây là những con số đáng báo động đối với một đất nước phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của nền sản xuất nông nghiệp.
Đặc biệt, trong các loại rác thải nhựa thải bỏ ra môi trường từ các tàu cá, rác thải nhựa sinh hoạt chiếm tỷ lệ hơn 87,7%, tương đương 7,6 tấn/năm. Nguồn thải này do ý thức và thói quen của chủ tàu. Còn với chất thải trong nuôi trồng thủy sản gồm nước thải, bùn thải và chất thải rắn, chủ yếu từ bao bì thức ăn, chai lọ hóa chất, thuốc thú y. Các đối tượng nuôi chủ lực như cá tra, tôm nước lợ và đối tượng có giá trị kinh tế (như cá rô phi, cá biển…) đã thải lượng chất thải đáng kể.
Theo đại diện Viện Môi trường Nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong năm 2024, tổng lượng phát sinh phụ phẩm ước tính là 93,61 triệu tấn, trong đó có 83,96 triệu tấn từ cây hàng năm; 2,67 triệu tấn từ cây ăn quả, 6,98 triệu tấn từ cây công nghiệp lâu năm. So với năm 2023, lượng phát sinh phụ phẩm giảm 1,9%. Công tác xử lý phụ phẩm và chất thải hiện tại dưới các dạng để lại ruộng đồng (rơm rạ, vỏ trấu…) chiếm 24,6%; thu gom xử lý (13,4%); chôn lấp (0,9%); tái sử dụng (29,7%), đốt (16,6%).
Với với lĩnh vực chăn nuôi, theo ước tính chất thải chăn nuôi có trên 80 triệu tấn/năm. Trong đó có khoảng 36% tổng khối lượng được thải trực tiếp vào môi trường; với tỷ lệ từ 16% đối với chăn nuôi trang trại và 40% đối với chăn nuôi quy nông hộ. Có 3,34% số cơ sở có báo cáo đánh giá tác động môi trường; 7,83% có giấy phép môi trường/kế hoạch bảo vệ môi trường; 83,86% số cơ sở có biện pháp xử lý chất thải chăn nuôi; 4,97% số cơ sở chưa có biện pháp xử lý chất thải chăn nuôi.
Loại khỏi danh sách thuốc BVTV có độc tính cao
Giới chuyên gia môi trường khẳng định, trong các nguồn phát thải của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng các vật tư, nguyên liệu bằng nhựa và vỏ bao bì thuốc BVTV, bao bì thức ăn chăn nuôi… là những nguồn phát thải nhựa chủ yếu. Từ đó, việc xây dựng và đặt những bể chứa bao bì thu gom được triển khai trên cả nước. Giai đoạn từ năm 2020 - 2024, các địa phương trên cả nước đã xây dựng được 187.999 bể chứa bao gói thuốc BVTV sau sử dụng; thu gom được 3.667.156 kg bao gói thuốc BVTV sau sử dụng, trong đó xử lý tiêu hủy đúng theo quy định được 2.117.227 kg, tự tiêu hủy 764.199 kg, chưa tiêu hủy 785.680 kg.
Cũng tại các địa phương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đẩy mạnh công tác phân loại, tái sử dụng chất thải nhựa trong ngành sản xuất nông nghiệp. Và trong giai đoạn 2022 đến năm 2025 giảm sử dụng tối thiểu 20% vật liệu nhựa; thu gom phân loại được tối thiểu 80% và tái sử dụng tối thiểu 12% chất thải nhựa từ hoạt động sản xuất, nhập khẩu, buôn bán và sử dụng thuốc BVTV. Trong giai đoạn 2026 đến năm 2030, sẽ giảm sử dụng tối thiểu 30% vật liệu nhựa; thu gom phân loại được 100% và tái sử dụng 20% chất thải nhựa từ hoạt động sản xuất, nhập khẩu, buôn bán và sử dụng thuốc BVTV.
Trong khi đó, theo đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường, từ năm 2017 đến năm 2023, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã rà soát và loại ra khỏi Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam 14 hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật như Carbendazim, Thiophanate Methyl, Benomyl, Paraquat, 2,4D, Acephate, Diazinon, Malathion, Chlorpyrifos ethyl, Fipronil, Glyphosate... (số này bao gồm 1.706 tên thương phẩm và 1.265 hàm lượng hoạt chất). Đây là các loại thuốc bảo vệ thực vật có nguy cơ cao ảnh hưởng đến sức khỏe con người, vật nuôi và môi trường.