Tinh hoa Việt

Hoạ sĩ Lê Thiết Cương: Nghệ sĩ là người đi tìm vân tay của chính mình

Nguyễn Quỳnh Trang (thực hiện) 22/06/2025 14:51

Họa sĩ Lê Thiết Cương là gương mặt nghệ sĩ nổi tiếng hàng đầu của Việt Nam và có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam. Với phong cách hội họa tối giản mà tinh tế, sáng tạo nghệ thuật cần mẫn, ra mắt tác phẩm tại nhiều triển lãm cá nhân trong nước, quốc tế, hoạ sĩ Lê Thiết Cương còn là nhà tổ chức nghệ thuật kinh nghiệm lâu năm, cùng các bài viết trên báo chí với văn phong cuốn hút riêng biệt.

Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với Hoạ sĩ Lê Thiết Cương, nhân sự kiện ra mắt cuốn sách “Trò chuyện với hội hoạ” (NXB Hội Nhà văn) hơn 500 trang mà anh đã thực hiện qua 20 năm.

PV: Nguyên do khởi đầu thế nào, bên cạnh vẽ, anh viết, viết rất chuyên nghiệp?

cd-hoa-si-le-thiet-cuong-1(1).jpg

Hoạ sĩ Lê Thiết Cương: Phần lớn mọi người xem tranh bằng cảm nhận, kể cả người trong nghề. Tôi thì ngoài cảm nhận, còn muốn phân tích, tác phẩm ấy đẹp, là vì sao. Viết ra những cảm, những nghĩ của mình về triển lãm ấy, bức tranh ấy cũng là tự nhiên thôi. Hơn nữa với tôi, viết là tự học, học thêm, học lại. Ví dụ khi viết về họa sĩ Lưu Công Nhân chẳng hạn thì mình phải đọc kỹ về khóa Mỹ thuật Kháng chiến của do hoạ sĩ Tô Ngọc Vân mở thời kỳ đó, xem thêm các tác phẩm của hoạ sĩ Lưu Công Nhân trong các cuốn sách đã phát hành. Hoặc khi viết về thể loại ký họa của chiến tranh chống Mỹ cứu nước thì phải đọc Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975, phải xem nhiều ký họa của các họa sĩ Trần Huy Oánh, Đào Đức, Hoàng Đình Tài, Lê Trí Dũng…

Mỗi một bài viết giới thiệu nghệ sĩ, là một áng văn học vừa sâu sắc, vừa truyền cảm, từ điểm nhìn của hoạ sĩ giỏi nghề, lại có sự dìu dắt nâng đỡ nhất là với nghệ sĩ trẻ mới, anh có chọn lựa nhân vật để cho anh cảm hứng viết? Có lần trò chuyện với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, ông chia sẻ, hoạ sĩ Lê Thiết Cương có “con mắt xanh” về hội hoạ. Anh nghĩ sao về điều này?

- Nếu viết về hội họa mà chỉ chọn những người đã thành danh, tên tuổi lẫy lừng để viết thì vô nghĩa. Thì có nên không? Tôi chọn một cách tiếp cận khác. Tôi viết về các tác phẩm cụ thể của các họa sĩ ấy. Ví dụ: Tôi viết về tác phẩm “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” của Nguyễn Sáng, “Hào” của Dương Bích Liên, “Vườn Xuân Trung Nam Bắc” của Nguyễn Gia Trí… Phần chủ yếu của “Trò chuyện với hội họa” tôi viết về những họa sĩ trẻ, những họa sĩ mới xuất hiện, thậm chí mới triển lãm lần đầu. Ví dụ: họa sĩ Trần Nhật Thăng, họa sĩ Lê Thị Minh Tâm, Nguyễn Thế Dung, Phạm Trần Quân, Đoàn Đức Hùng… Có khi là họ mời tôi đến xem tranh để viết nhưng đa phần là tôi tự tìm đến họ, thấy hay thì viết. Không ý thức về sự “nâng đỡ dìu dắt” gì cả.

Còn về chuyện “con mắt xanh” mà anh Nguyễn Huy Thiệp nhắc đến, theo tôi là thế này: trước tiên người viết phải “vô sở cầu”, phải “vô tâm”, phải có kiến văn về nghệ thuật nói chung, về hội họa nói riêng, phải có con mắt nghề, điều này hiển nhiên với tôi vì tôi là họa sĩ. Phải có quan điểm riêng viết về hội họa là gì? Tôi chỉ viết trên cơ sở duy nhất, là bức tranh ấy, bức tượng ấy, tức là “văn bản” ấy, tôi không có nhu cầu hỏi han trò chuyện với tác giả kiểu như: anh chị nghĩ gì khi thực hiện tác phẩm? Cảm hứng từ đâu? Muốn truyền tải thông điệp gì?... Giả sử họ có tự nói thì thú thực tôi cũng không tin. Về bản chất, tất cả những chuyện đó nó đã nằm trong tác phẩm. Vấn đề là người viết có biết đọc tranh hay không thôi. Chưa bao giờ tôi hỏi họa sĩ Lê Kinh Tài một câu gì. Xem triển lãm của anh ta, thấy có chuyện để viết thì viết. Tương tự vậy, đến xem phòng tranh của chị Đinh Ý Nhi, Lý Trần Quỳnh Giang, Đinh Thị Thắm Poong, gặp họ trò chuyện bâng quơ thôi. Tranh của họ quá hay (nhưng không dễ cảm nhận) thì viết…

Cho nên thật vui, khi được nghe vài ba họa sĩ nói sau khi đọc bài tôi viết về họ, “tôi thích vì anh đã chỉ ra cho tôi cái điều mà tôi cũng không nghĩ tới khi vẽ”.

Trong mỗi bài viết cũng như phát biểu của mình, anh thường đưa vào tư tưởng của anh về đạo? Đạo, đạo Phật, đã ngấm vào trong anh như thế nào và anh ứng dụng thông qua mỗi tác phẩm, đưa vào mỗi bài viết ra sao?

- Đời sống tinh thần của tôi được nuôi dưỡng bởi truyền thống gia đình, từ ông bà cha mẹ đều theo Phật giáo. Tủ sách gia đình phần lớn là kinh Phật hoặc sách triết học phương Đông, Trang, Khổng, Lão… Tuổi biết đọc vào đúng thời hậu chiến, chả có sách gì. Trong giá sách có gì thì đọc nấy. Kiến thức ấy ngấm trong tôi tự nhiên như vậy. Không có gì để đọc thì đọc và đọc cũng chả để làm gì nên có lẽ nó thấm trong mình.

Tôi luôn thấy triết nào, đạo nào, tôn giáo nào cũng hay, đẹp, dựa trên những giá trị con người làm căn cốt. Nghệ thuật cũng vậy thôi, có nghệ thuật nào mà lại không lấy chuyện người, chuyện thân phận người để bảo lãnh cho mình. Những câu chuyện có thể nhỏ thôi nhưng là những chuyện muôn thuở của “cõi người ta”, hội ngộ / chia ly, hạnh phúc / bất hạnh… nghệ thuật nâng đỡ, chia sẻ và an ủi cho người ta nhiều lắm.

Theo quan niệm của nhà Phật thì ai ai cũng có Phật tính, “ngọn cỏ còn có Phật tính huống chi…”. Đi tu là trở về mình, đi tu là đi tìm cái bản lai diện mục của chính mình chứ không phải là đi đến tận đâu. Thấy tâm, thấy tính thì thành Phật. Điều này là cốt tử. Làm nghệ thuật cũng y như vậy. Nghệ sĩ là kẻ đi tìm mình, tìm vân tay của mình, tìm ra cách kể, cách hát, cách vẽ riêng của mình. Rốt ráo thì phong cách là niết bàn.

Vẽ cũng là “tu”, vẽ cũng là tu tâm tu tính, vẽ cũng là hành thiền. Tác phẩm của những họa sĩ bậc thầy đều là một dạng chứng ngộ.

Một bức tranh đẹp, một mảng màu đẹp, thậm chí một nét đẹp như một niệm khởi cho một duyên sinh với cả người vẽ cũng như người thưởng ngoạn. Đâu cứ phải nhiều lời, thiền vốn vô ngôn.

ra mat sach Hs Le Thiet Cuong 2
Buổi ra mắt sách “Trò chuyện với hội hoạ”.

Sự độc đáo trong ngôn ngữ viết của anh là gì?

- Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong nghệ thuật được nhà văn Nguyên Ngọc bàn rất hay: “Đối với người họa sĩ, không có tiếng nói hội họa của riêng mình tức cũng là không có gì hết”.

Hoạ sĩ Lê Thiết Cương sinh năm 1962, tại Hà Nội.

- Nghệ sỹ tự do tại Hà Nội.

- Có tác phẩm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Singapore (SAM), Bảo tàng Royal de Mariemont (Vương quốc Bỉ) và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

- Đã triển lãm ở nhiều nước.

- Chuyên viết về văn hóa, nghệ thuật và minh họa cho các báo và tạp chí: Tuổi Trẻ, Lao động, Tia Sáng, Nhân Dân...

- Thường xuyên tổ chức triển lãm phi lợi nhuận tại Gallery39, Laca Cafe, Hàng Da Gallery, Trung tâm văn hóa Cafe Trung Nguyên và Chuỗi nghệ thuật Davines, Trung tâm nghệ thuật đương đại VCCA.

- Đã thiết kế sách cho nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Quân, Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Hữu Ước, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Bích Thúy, Đào Trọng Khánh, Hà Tường…

- Giải thưởng Good Design Award (Nhật Bản) trong hai năm 2003-2004, 2005-2006.

Tôi đặc biệt thích nhận định trên. Bởi vậy khi viết tôi luôn đặt ra tiêu chí là phải chỉ ra bằng được điều gì tạo nên sự khác biệt của họa sĩ ấy thông qua những tiêu chí hình thức của hội họa: tạo hình, mầu, bố cục, bút pháp, chất liệu, đậm nhạt, hòa sắc… Cách viết bám vào nội dung sẽ giết chết hội họa. Hoặc một cách viết nữa là nặng về chơi chữ, làm tản văn, tán hươu tán vượn… thì giết cả người viết lẫn tác phẩm mà người ấy viết.

Ví dụ khi bình về tác phẩm Vườn Xuân Trung Nam Bắc của họa sĩ Nguyễn Gia Trí: “Trong tác phẩm này, trên nền son nhì đỏ bầm đằm thắm chỉ còn lại sắc vàng của vàng trần và then, không thấy ông dùng bạc quỳ trong tranh này mà thay vào đó là gắn trứng. Có thể nói màu trắng, sắc trắng trong tác phẩm này là chủ đạo. Từ kỹ thuật gắn trứng, ông đã đưa thành nghệ thuật khi tất cả những mảng trắng được bay bổng tự do, gắn tràn ra ngoài hình, không chấp nhận gò bó trong cái khuôn chật chội của hình thể. Cuộc vượt thoát ra khỏi hình cũng là vượt khỏi sự ràng buộc kiểu đúng hình của hiện thực, thoát ra khỏi thực, một điểm rất mới mà các tác phẩm trước của ông chưa có. Vườn xuân Trung Nam Bắc là một tác phẩm “Hiện thực huyền ảo”. Với kiểu gắn trứng tự do này, hình sẽ động hơn, các nhân vật dường như đang chuyển động. Hơn nữa kiểu gắn này còn làm cho những mảng trắng kết lại, tạo thành một kiểu bố cục màu rất khúc triết. Thêm một tuyệt bút trong Vườn xuân Trung Nam Bắc đó là: tác phẩm này như một dàn hợp xướng của nét, nét đứt, nét liền, to nhỏ, nét then, nét son, nét vàng hòa quyện uốn lượn, bay bổng, phóng khoáng, tự do… đầy ảo diệu, ngẫu hứng và cũng không phải là nét kiểu đường viền, chạy theo hình mà hoàn toàn chỉ là nương theo hình để nhấn nhá, khơi gợi cho hình, gọi hình”.

Nghĩ đến anh, là nghĩ tới Gallery39, 20 năm qua, đã tổ chức biết bao triển lãm, đón tiếp biết bao tao nhân mặc khách, những tình cảm, ký ức của anh với ngôi nhà thân yêu này?

- 20 năm đã qua, biết bao triển lãm đã diễn ra ở ngôi nhà này, biết bao nhân vật đã đến và đi. Buồn vì quá nhiều người đã đi xa: họa sĩ Đào Đức, họa sĩ Trịnh Tú, đạo diễn Đào Trọng Khánh, nhạc sĩ Thụy Kha, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp… Chính họ đã làm đẹp cho ngôi nhà này, làm đẹp cho ký ức của tôi.

Đọng lại, vẫn là nhóm những người bạn thân quen: nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn Nguyễn Việt Hà, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều… dường như anh thân với nhiều bạn trong văn giới, vì sao? Điều này có ảnh hưởng đến việc yêu thích viết của anh không?

- Trước tiên tôi là người yêu văn chương thi ca, tôi là người đọc. Tôi trọng tài của người khác. Sau đó vì tôi là họa sĩ, tôi hay được các nhà văn, nhà thơ tin tưởng nhờ làm bìa sách hoặc minh họa cho các tác phẩm của họ. Tình bạn đều đến rất tự nhiên.

Cũng kỷ niệm 20 năm viết, anh cho ra mắt cuốn sách “Trò chuyện với hội hoạ” dày 500 trang với 3 chương, từ Mỹ thuật Đông Dương đến các hoạ sĩ hội đổi mới, anh chia sẻ thêm về cuốn sách?

Như tên gọi của cuốn sách, “Trò chuyện với hội họa”, tôi chọn khoảng 70 bài viết về hội họa, in rải rác trên các báo Tuổi Trẻ, Lao Động Cuối Tuần, Thể Thao Văn Hóa, Nhân Dân Hàng Tháng và Tạp chí Tia Sáng trong hơn hai chục năm, từ năm 2000 đến nay.

Trò chuyện với hội họa gồm những bài về các tác giả và các tác phẩm mà tôi quan tâm bao gồm, tranh, điêu khắc và gốm… Ngoài ra là một số bài về những câu chuyện chung, hội họa hiện thực, tranh cổ động, tranh truyền thần, điêu khắc đình làng…

Trò chuyện với hội họa như một bức tranh chân dung nhỏ về lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam vì đủ các họa sĩ từ thế hệ đầu tiên, thế hệ các họa sĩ học trường Mỹ thuật Đông Dương, tiếp theo là các họa sĩ học Khóa Kháng chiến, các họa sĩ Thời Đổi mới và sau nữa.

Trò chuyện thì gần gũi, giản dị của đồng nghiệp với nhau mặc dù trong đó vẫn có phê bình, lý luận và lịch sử mỹ thuật. Vì người viết là người vẽ nên trong cuộc chuyện trò ấy sẽ có cả những chuyện kỹ thuật nghề, chuyện “ngoại truyện”, chuyện thao tác nghề mà những người viết không phải là người vẽ thì ít khi đề cập chi tiết.

Khi viết về một tác giả tôi luôn chỉ ra, thông qua tác phẩm đó, tác giả đã đóng góp gì về mặt nghệ thuật hội họa mà ở những tác giả khác không có, nhất là những đóng góp về hình thức, tức là nguyên liệu làm nên hội họa, hình, mầu, bố cục, đậm nhạt, chất liệu, bút pháp…

Trò chuyện với hội họa chính là trò chuyện của tôi, hiểu biết và nhận định cá nhân của tôi cùng các bạn về nghệ thuật hội họa.

bia sach Tro chuyen voi hoi hoa Hs Le Thiet Cuong
Bìa cuốn sách “Trò chuyện với hội hoạ”.

Từ hành trình viết 20 năm, những gì ấn tượng và đọng lại trong anh?

- Đi nhiều, xem nhiều, gặp nhiều tôi thấy tiếc cho một số họa sĩ. Họ đã có những tác phẩm đẹp, có những triển lãm hay nhưng rồi dừng lại. Hình như trong nghệ thuật, năng khiếu chỉ có giá trị giúp họ đi những cây số đầu tiên trên hành trình dài của con đường làm nghệ thuật. Muốn đi xa thì phải sống, sống đúng nghĩa đã, phải có kiến thức, tri thức…

Anh mong mang tới những điều gì cho bạn đọc qua cuốn sách?

- Nói gì thì nói, ngày hôm nay hội họa được quan tâm hơn trước rất nhiều, hội họa Việt đã có công chúng là người Việt. Có nhiều triển lãm, nhiều buổi đấu giá trong ngoài nước mà người thắng cuộc là người Việt.

Tôi hy vọng những người yêu hội họa, bắt đầu tìm hiểu hội họa, bắt đầu chơi tranh, bắt đầu học vẽ có thể thấy trong Trò chuyện với hội họa chút ít kiến thức về lịch sử mỹ thuật Việt, lý luận, phê bình… được viết ngắn gọn, dễ hiểu, thông qua hình thức “trò chuyện”.

Dự định của anh trong thời gian tới?

- Sau cuốn “Nhà và Người” (xuất bản tháng 8/2024) là cuốn “Trò chuyện với hội họa”. Sang năm sẽ là cuốn số 3 về văn hóa Việt Nam, một đề tài mà tôi yêu thích.

Trân trọng cảm ơn anh!

Cuốn sách “Trò chuyện với hội hoạ” là cuốn thứ 2 nằm trong bộ 4 cuốn của hoạ sĩ Lê Thiết Cương. Đây là một ấn phẩm đặc biệt viết về hội họa, đã đăng trên các báo và tạp chí từ năm 2005 đến nay như Tia Sáng, Lao Động cuối tuần, Tuổi Trẻ, Nhân dân hàng tháng. Cuốn sách cỡ gồm 3 chương với hơn 70 bài viết về mỹ thuật, gốm, điêu khắc, hội họa hiện thực, cổ động chiến tranh, tranh truyền thần…

Chương I: Mỹ thuật Đông Dương và Khóa Kháng chiến Tô Ngọc Vân từ bộ tứ Nghiêm Liên Sáng Phái đến các họa sĩ Đào Đức, Lưu Công Nhân, Linh Chi, Trần Lưu Hậu…

Chương II: Giai đoạn tiếp theo: gồm các bài viết về lứa họa sĩ tiếp nối Khóa kháng chiến như: Lý Trực Sơn, Trịnh Thái, Nguyễn Hải, Nguyễn Quốc Thái..., rồi đến thế hệ họa sĩ Đổi mới: Đỗ Sơn, Đào Hải Phong, Hoàng Phượng Vỹ, Hà Trí Hiếu, Đinh Ý Nhi, Phan Phương Đông… và Hậu đổi mới: Lê Kinh Tài, Trương Tiến Trà, Đinh Thị Thắm Poong, Lập Phương…

Chương III: Những câu chuyện chung về mỹ thuật như tranh cổ động – ký họa chiến tranh, tranh truyền thần, mỹ thuật dục tình/ một truyền thống của nghệ thuật Việt.

Nguyễn Quỳnh Trang (thực hiện)