Quốc hội

Chính phủ được ban hành nghị quyết tháo gỡ những 'điểm nghẽn'

Việt Thắng 24/06/2025 16:04

Trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung, để kịp thời tháo gỡ những “điểm nghẽn”, Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ trình.

bamnut246.jpg
Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết (Ảnh: Quang Vinh)

Chiều 24/6, Quốc hội thông qua nghị quyết về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.

Nghị quyết quy định 3 tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật tại Điều 2 gồm: (1) Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật. (2) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật. (3) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển mô hình kinh doanh mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.

Về nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Điều 3 Nghị quyết quy định 5 nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chặt chẽ, tránh tùy tiện trong thực thi.

Về phương án xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật: Khi xác định được các khó khăn, vướng mắc theo các tiêu chí, nguyên tắc đã nêu, Điều 4 quy định 2 phương án xử lý, gồm: (1) Giải thích hoặc hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 60, 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành.

Trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung, để kịp thời tháo gỡ những “điểm nghẽn”, Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ trình, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất.

Trường hợp nội dung sửa đổi, bổ sung dẫn đến đồng thời phải sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì việc ban hành nghị quyết của Chính phủ phải xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Để kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc trong các luật, nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 4 của Nghị quyết thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền. Các khó khăn, vướng mắc do quy định của các văn bản quy phạm pháp luật không phải là luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì cơ quan ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền.

Nghị quyết cũng quy định rõ về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật và về tổ chức thực hiện

Về điều khoản thi hành, Nghị quyết nêu rõ hiệu lực thi hành của Nghị quyết từ ngày 1/7/2025 đến hết ngày 28/2/2027.

Việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật về sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, phân quyền, phân cấp đã được quy định tại Điều 32 của Luật Tổ chức Chính phủ, Điều 50 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Nghị quyết số 190/2025/QH15 ngày 19/2/2025 của Quốc hội quy định về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước được thực hiện theo quy định tại các văn bản đó hoặc Nghị quyết này.

Việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và năng lượng nguyên tử đã được quy định tại Điều 74 của Luật Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và Điều 72 của Luật Năng lượng nguyên tử thì thực hiện theo quy định tại các văn bản đó hoặc Nghị quyết này.

Trước khi Quốc hội thông qua, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã báo cáo tóm tắt tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết. Trong đó, về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ bổ sung quy định về trách nhiệm của các thành viên Hội đồng thẩm định độc lập tại khoản 4 Điều 5 dự thảo Nghị quyết. Đồng thời, quy định các nội dung cụ thể về cơ chế phối hợp, trách nhiệm của các thành viên Hội đồng thẩm định tại Quy chế hoạt động do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Về việc tổ chức thực hiện Nghị quyết, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý khoản 5 Điều 6 dự thảo Nghị quyết theo hướng mở rộng chủ thể và tăng cường việc giám sát của các chủ thể đối với việc Chính phủ ban hành nghị quyết để điều chỉnh luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cùng với đó, Chính phủ sẽ quán triệt việc tăng cường trách nhiệm và tính chủ động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết.

Việt Thắng