Hiến tạng sau chết não tăng 173%: Động lực mới cho ngành ghép tạng Việt Nam
Số ca hiến tạng từ người chết não tại Việt Nam đã tăng 173% chỉ sau một năm – mức cao nhất từ trước đến nay và là tỷ lệ tăng nhanh nhất thế giới hiện nay. Thành tựu này không chỉ mở rộng cơ hội sống cho hàng trăm bệnh nhân, mà còn đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ của ngành y tế trong lĩnh vực ghép tạng.
.jpg)
Một bước tiến của y học nhân đạo
Tính đến tháng 6/2025, Việt Nam đã ghi nhận 37 ca hiến mô, tạng sau chết não – gần bằng tổng số ca của cả năm 2024, và cao hơn gấp 2,7 lần so với trung bình giai đoạn 2021–2023. Nếu tính riêng năm 2024, số ca hiến sau chết não đạt 41 trường hợp – con số cao nhất từ trước tới nay. So với năm 2023, mức tăng đạt 173%, được đánh giá là tỷ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới hiện nay trong cùng lĩnh vực.
PGS.TS Đồng Văn Hệ – Giám đốc Trung tâm Điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người nhận định: “Con số 173% không chỉ là một chỉ dấu thống kê, mà là thành quả rõ nét từ sự phối hợp giữa truyền thông cộng đồng, cam kết chính trị và năng lực chuyên môn y tế. Đây là thời điểm mà ngành ghép tạng Việt Nam có thể bước sang một giai đoạn phát triển mới, nhân văn và chủ động hơn.”
Hiến mô, tạng sau chết não đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực ghép tạng. Khác với hiến sống – vốn phụ thuộc nhiều vào quan hệ huyết thống hoặc tự nguyện hi hữu hiến sau chết não cho phép lấy cùng lúc nhiều bộ phận như tim, gan, thận, tụy, giác mạc từ một người để cứu sống nhiều bệnh nhân. Thống kê từ các trung tâm ghép tạng lớn cho thấy, trung bình một người chết não có thể cứu hoặc cải thiện chất lượng sống cho ít nhất 5 - 7 người. Nguồn tạng này vì thế mở ra hy vọng cho hàng nghìn bệnh nhân đang chờ ghép.
Đặc biệt, các ca ghép đa tạng xuyên vùng, xuyên tuyến thời gian gần đây như trường hợp hiến tạng tại Bệnh viện Thống Nhất ngày 13/6 vừa qua cho thấy, hệ thống điều phối ghép tạng quốc gia đã vận hành hiệu quả hơn bao giờ hết. Nhờ sự hỗ trợ của hàng chục đơn vị liên ngành từ y tế, giao thông, hàng không đến công an, toàn bộ quá trình tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển mô, tạng đến các bệnh viện nhận được thực hiện chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ. Sự sống được nối dài không còn phụ thuộc vào vị trí địa lý hay khoảng cách giữa người cho và người nhận.
6 tháng đầu năm 2025, nhiều bệnh viện trên cả nước đã thực hiện thành công hàng loạt ca ghép từ người chết não. Tại Bệnh viện Trung ương Huế, một bệnh nhân nam 35 tuổi được ghép tim từ người cho ở TPHCM, thời gian vận chuyển và ghép chỉ trong 6 giờ ngang chuẩn quốc tế. Cũng trong thời gian này, Bệnh viện Nhi đồng 2 lần đầu tiên thực hiện ca ghép gan từ người chết não cho bệnh nhi 4 tuổi, mở ra hi vọng mới cho nhóm bệnh nhân nhỏ tuổi suy gan giai đoạn cuối.
Một yếu tố khác mang tính đột phá là sự chuyển dịch âm thầm nhưng mạnh mẽ trong nhận thức cộng đồng. Không còn quá xa lạ hay dè dặt, ngày càng nhiều người dân chủ động đăng ký hiến mô tạng sau khi qua đời. PGS.TS Đồng Văn Hệ nhìn nhận: “Thành tựu hiện nay là kết quả của một quá trình tích lũy lâu dài, nhưng cũng là bước khởi đầu để ngành ghép tạng Việt Nam bước sang giai đoạn chủ động. Nếu duy trì đà tăng trưởng hiện nay, chúng ta có thể hướng tới một hệ sinh thái ghép tạng nhân đạo, công bằng và bền vững”.
Từ thành tựu bước đầu đến bài toán phát triển bền vững
Dù tỷ lệ hiến tạng sau chết não đã tăng mạnh trong hai năm qua, thực tế cho thấy nền tảng phát triển vẫn còn nhiều khoảng trống cần được lấp đầy. Theo số liệu từ Trung tâm Điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người, hiện tại khoảng 94% số ca ghép tạng ở Việt Nam vẫn đến từ người hiến sống, trong khi tỷ lệ hiến sau chết não mới chỉ chiếm khoảng 12% tổng số ca ghép tạng. Trong khi đó, tại Thái Lan – quốc gia có hệ thống hiến ghép tạng phát triển sớm hơn tỷ lệ này đã đạt trên 60%, nhờ áp dụng mô hình tổ chức “bệnh viện công bố” và chính sách hỗ trợ từ cộng đồng tôn giáo.
Sự chênh lệch ấy cho thấy Việt Nam đang đi đúng hướng, nhưng vẫn còn khoảng cách đáng kể về chiều sâu hệ thống. Một trong những rào cản lớn nhất là tâm lý e ngại về hiến tạng sau khi qua đời.
Về mặt pháp lý, Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác hiện hành được ban hành từ năm 2006. Dù đã có những nghị định hướng dẫn bổ sung, nhưng hệ thống pháp lý vẫn chưa đủ linh hoạt để đáp ứng thực tiễn. Ví dụ, chưa có cơ chế hỗ trợ tâm lý và pháp lý cho gia đình người hiến, chưa có quy trình thống nhất liên vùng về xác định chết não, vận chuyển tạng, cũng như hệ thống đăng ký hiến tạng quốc gia chưa có tính ràng buộc pháp lý đủ mạnh.
Theo PGS.TS Đồng Văn Hệ, để đưa tỷ lệ hiến sau chết não lên mức tương đương các quốc gia phát triển trong khu vực, Việt Nam cần một chiến lược tổng thể gồm ba trụ cột: nâng cao nhận thức cộng đồng bằng cách truyền thông gần gũi, kể chuyện người thật – việc thật; tổ chức lại quy trình xác định chết não và tư vấn hiến tại các bệnh viện; và hoàn thiện hành lang pháp lý, đưa hiến tạng thành một phần chính sách nhân đạo quốc gia.
Một số chuyên gia cũng cho rằng, nên thí điểm lồng ghép nội dung giáo dục về hiến mô, tạng vào chương trình học phổ thông hoặc sinh hoạt Đoàn – Đội, tạo nền tảng nhận thức từ sớm. Đồng thời, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để học hỏi mô hình đăng ký hiến tạng tự động (opt-out) hoặc mô hình “bệnh viện công bố”, trong đó cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo tất cả các ca chết não đủ điều kiện hiến tạng tới trung tâm điều phối.