Mở rộng thị trường ngành chuối từ sản xuất xanh: Tăng sức cạnh tranh
Chuối hiện không chỉ là trái cây có sản lượng cao nhất trong nhóm cây ăn quả chủ lực, mà còn là một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn của ngành nông nghiệp Việt Nam. Sản lượng lớn song giá trị lại chưa tương xứng, ngành chuối hiện phải đối mặt áp lực chuẩn hóa và chuyển sang sản xuất xanh.
.jpg)
Phần lớn chuối xuất khẩu ở dạng thô
Số liệu thống kê của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho thấy, các vùng trồng chuối lớn nhất hiện nay gồm Đồng bằng sông Cửu Long (39.000ha), Đông Nam bộ (25.000ha), Trung du miền núi phía Bắc (26.100ha) và Đồng bằng sông Hồng (21.900ha). Năng suất chuối bình quân đạt 207,3 tạ/ha, trong đó Đông Nam bộ nổi bật với năng suất lên đến 344,8 tạ/ha, cao nhất cả nước, phản ánh mức độ đầu tư và áp dụng kỹ thuật tương đối cao tại khu vực này.
Và không dừng ở sản xuất nội địa, chuối Việt Nam đã vươn ra thị trường thế giới mạnh mẽ. Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu gần 625.000 tấn chuối sang Trung Quốc, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng chuối quốc gia này nhập khẩu. Bên cạnh đó, sản phẩm chuối Việt Nam còn hiện diện tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, ASEAN (Malaysia, Singapore), EU và Trung Đông.
Vậy nhưng theo giới chuyên gia nông nghiệp, hiện phần lớn chuối xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở dạng thô, tỷ lệ chuối chế biến còn hạn chế. Trong bối cảnh các thị trường nhập khẩu ngày càng tăng rào cản kỹ thuật thì giá trị gia tăng từ sản phẩm chế biến sâu (như chuối sấy, chuối ép, bột chuối, snack chuối) là chìa khóa để Việt Nam thoát khỏi thế bị động về giá cả, đồng thời kéo dài chuỗi giá trị và tăng sức cạnh tranh. Số liệu thống kê cho thấy, giá trị xuất khẩu chuối năm 2024 ước đạt 378 triệu USD, tương ứng khoảng 2.400 USD/ha, con số chưa tương xứng với tiềm năng thật sự của ngành hàng này.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Như Cường - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chia sẻ, dư địa thị trường cho chuối Việt Nam đã rộng mở, nhưng chính điều đó đặt ra yêu cầu khắt khe hơn về tiêu chuẩn. Và để duy trì thị phần hiện tại và mở rộng thị phần có giá trị cao, ngành hàng chuối cần tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, kiểm soát chặt quy trình canh tác, đảm bảo an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và đáp ứng đầy đủ yêu cầu kiểm dịch thực vật của từng quốc gia.
Định hướng đến năm 2030, ngành hàng chuối sẽ duy trì diện tích từ 165.000 đến 175.000 ha, sản lượng từ 2,6 đến 3 triệu tấn, tức không mở rộng quá nhiều về diện tích mà tập trung nâng cao hiệu quả và giá trị trên đơn vị canh tác.
Hướng đi mới
Giới chuyên gia cho rằng, nếu ứng dụng công nghệ cao, phát triển giống chuối mới có khả năng kháng bệnh héo rũ Panama, đồng thời tổ chức sản xuất quy mô lớn gắn với chế biến và logistics hiện đại, ngành hàng chuối Việt Nam có thể bứt phá. Và mục tiêu đạt 20.000 USD/ha không phải là bất khả thi nếu toàn chuỗi cùng vận hành theo cùng một tiêu chuẩn chất lượng.
Giới chuyên gia nhận định, từ cây trồng phổ biến, chuối đang từng bước trở thành ngành hàng có chiến lược phát triển rõ ràng, quy mô lớn và tiềm năng xuất khẩu bền vững. Những năm tới, ngành hàng chuối Việt Nam không thể dừng lại ở vai trò nguồn cung mà cần định vị là một trong những trung tâm sản xuất chuối có tầm ảnh hưởng toàn cầu cả về sản lượng, chất lượng lẫn công nghệ sản xuất. Trong bối cảnh toàn cầu ngày càng quan tâm đến sức khỏe người tiêu dùng và an toàn môi trường, việc sản xuất chuối theo hướng xanh - sạch - bền vững sẽ là lợi thế cạnh tranh lâu dài cho Việt Nam. Đặc biệt, các thị trường cao cấp như EU và Nhật Bản ngày càng yêu cầu không chỉ về chất lượng quả mà còn về trách nhiệm xã hội, truy xuất vùng trồng và tác động môi trường trong suốt quá trình sản xuất.
Chia sẻ dưới góc độ doanh nghiệp, ông Phạm Quốc Liêm - Chủ tịch, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp U&I (Unifarm) cho hay, một số mô hình sản xuất quy mô lớn tại Việt Nam đang cho thấy hướng đi mới đầy tiềm năng: Phát triển cây chuối bằng công nghệ cao, theo đuổi một tiêu chuẩn chất lượng duy nhất, xuyên suốt toàn bộ chuỗi từ giống, canh tác, thu hoạch đến truy xuất nguồn gốc. Mỗi giai đoạn sản xuất, từ chọn giống, quản lý vùng trồng đến xử lý sau thu hoạch đều được xác định rõ mục tiêu, có tiêu chí đánh giá cụ thể và điều chỉnh theo tín hiệu thị trường. Từ đó, người trồng không chỉ sản xuất để bán mà còn tham gia vào chuỗi giá trị dài hơn, nơi chất lượng và sự ổn định là yếu tố then chốt để xây dựng thương hiệu chuối Việt Nam.
PGS.TS Phạm Anh Tuấn - Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch cho biết, viện đang nghiên cứu công nghệ bảo quản phù hợp với các loại trái cây dễ hư hỏng như chanh leo, chuối, dứa. Viện đã làm chủ nhiều công nghệ nổi bật như tạo màng sinh học kéo dài thời gian bảo quản, sấy bơm nhiệt, sấy thăng hoa, cấp đông siêu tốc và chế biến puree chuối với chi phí thấp.