Phát hiện sớm bệnh lao: Chìa khóa bảo vệ cộng đồng
Trái với suy nghĩ phổ biến rằng bệnh lao đã được kiểm soát, thực tế cho thấy đây vẫn là căn bệnh truyền nhiễm gây tử vong hàng đầu tại Việt Nam. Điều đáng nói, nguyên nhân không nằm ở sự chủ quan hay thờ ơ của cộng đồng, mà chính bởi tính chất âm thầm, khó nhận biết của bệnh khiến không ít người phát hiện khi đã muộn.
.jpg)
Khi bệnh không gõ cửa bằng tiếng ồn
Là bác sĩ trực tiếp điều trị cho bệnh nhi tại Trung tâm Bệnh nhiệt đới (Bệnh viện Nhi Trung ương), ThS.BS Nguyễn Phương Thảo đã từng chứng kiến nhiều trường hợp trẻ em nhập viện trong tình trạng nguy kịch. Một trường hợp cụ thể, bé gái 3 tháng tuổi ở Phú Thọ được chuyển đến bệnh viện trong tình trạng ho nhiều, khó thở, co giật toàn thân. Qua thăm khám và làm xét nghiệm, bệnh nhi được chẩn đoán mắc lao toàn thể – bao gồm lao phổi và lao màng não. Trước đó, cha của cháu từng mắc lao nhưng gia đình không hề nghĩ đến việc con có thể bị lây bệnh.
“Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương vì hệ miễn dịch chưa hoàn thiện. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm, bệnh có thể diễn tiến nhanh và để lại di chứng nặng nề” – BS Thảo cảnh báo.
Không riêng trẻ em, người lớn cũng thường xuyên bỏ qua các dấu hiệu ban đầu của bệnh lao. Những triệu chứng như ho kéo dài, sốt nhẹ về chiều, sụt cân hay mệt mỏi thường bị quy cho cảm cúm thông thường hoặc viêm phế quản. Bệnh lao tiềm ẩn – tức người đã nhiễm vi khuẩn nhưng chưa phát bệnh – lại càng khó phát hiện hơn khi hoàn toàn không có triệu chứng. Tuy nhiên, trong những điều kiện thuận lợi như suy giảm miễn dịch, stress kéo dài hoặc mang thai, vi khuẩn có thể tái hoạt, gây tổn thương nhiều cơ quan cùng lúc.
Một trường hợp khác tại Bệnh viện Bạch Mai cho thấy mức độ nguy hiểm khi chẩn đoán muộn. Sản phụ đang mang thai tuần thứ 27 sau thụ tinh trong ống nghiệm, ban đầu được chẩn đoán cúm A và điều trị tại tuyến cơ sở. Tuy nhiên, tình trạng sốt, đau đầu không cải thiện, sau đó tiến triển nhanh thành rối loạn tri giác. Chỉ khi được chuyển đến Viện Y học Nhiệt đới, các bác sĩ mới xác định bệnh nhân bị lao màng não – thể lao nặng nhất, với nguy cơ tử vong hoặc để lại di chứng thần kinh vĩnh viễn.
ThS.BS Nghiêm Văn Hùng - Bệnh viện Bạch Mai cho biết: “Phụ nữ mang thai là nhóm có miễn dịch suy giảm sinh lý, rất dễ mắc lao và bệnh có thể diễn tiến nhanh, khó lường. Với những trường hợp này, chỉ cần chậm trễ vài ngày là có thể nguy kịch cả mẹ và thai nhi”,
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng 180.000 ca mắc lao mới và hơn 11.000 ca tử vong. Tuy nhiên, 40% ca bệnh trong cộng đồng chưa được phát hiện, đồng nghĩa hàng chục nghìn người vẫn âm thầm mang bệnh và lây lan. Lao không chỉ là vấn đề y tế, mà còn gây hệ lụy xã hội, kinh tế nghiêm trọng, khi 70% người mắc trong độ tuổi lao động và tới 98% bệnh nhân lao kháng thuốc rơi vào cảnh “chi phí thảm họa”, vượt quá 20% thu nhập hộ gia đình.
Chủ động để phát hiện bệnh
Trong hơn một thế kỷ kể từ khi vi khuẩn lao được phát hiện, y học đã tiến những bước dài trong chẩn đoán và điều trị bệnh lao. Nhưng khả năng tiếp cận chẩn đoán vẫn là một rào cản đáng kể đối với việc chăm sóc và điều trị lao tại nước ta.
TS.BSCC Đinh Văn Lượng - Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương cho biết: “Chúng ta chỉ đang phát hiện được khoảng 60% số ca lao trong cộng đồng. Nếu không kiểm soát được số còn lại, đặc biệt là lao tiềm ẩn và lao kháng thuốc – thì mục tiêu chấm dứt bệnh lao vào năm 2030 sẽ rất gian nan”.
Vì thế, ngành y tế Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp chủ động. Một trong những điểm nhấn là chiến lược “2X” – kết hợp chụp X-quang ngực và xét nghiệm GeneXpert – giúp phát hiện lao nhanh và chính xác hơn nhiều so với phương pháp truyền thống. Đến nay, đã có hơn 400 máy GeneXpert được trang bị tại các cơ sở y tế trên toàn quốc, giúp sàng lọc hiệu quả tại tuyến cơ sở. Tại Bình Thuận, năm 2024 đã ghi nhận hơn 1.100 ca lao tiềm ẩn thông qua chiến dịch khám lưu động, trong đó trên 67% đã được điều trị dự phòng thành công.
Ngoài ra, chiến lược mới giai đoạn 2026 - 2030 đang được xây dựng với trọng tâm là tích hợp khám sàng lọc lao vào quy trình khám chữa bệnh thường quy. Việc tầm soát sẽ được đẩy mạnh tại các nhóm nguy cơ cao: công nhân khu công nghiệp, người sống trong trại giam, bệnh nhân HIV, người đang điều trị hóa chất, phụ nữ chuẩn bị mang thai hoặc làm IVF. Với nhóm trẻ em – vốn ít được chú ý vì chẩn đoán khó khăn – các bác sĩ nhi khoa khuyến nghị nên xét nghiệm và điều trị dự phòng nếu có tiếp xúc gần với người mắc lao trong vòng 2 năm.
Tuy nhiên, xét nghiệm hiện đại chỉ là một phần. Quan trọng hơn, người dân cần nhớ: bệnh lao hoàn toàn có thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị đủ, đúng, đều. Phác đồ điều trị kéo dài 6 - 9 tháng; nếu bỏ dở hoặc dùng thuốc sai cách, thời gian điều trị sẽ kéo dài gấp đôi, chi phí cũng tăng lên nhiều lần.
TS.BSCC Đinh Văn Lượng nhấn mạnh: “Đằng sau mỗi ca bệnh được phát hiện là sự nỗ lực không ngừng nghỉ của y bác sĩ, cộng đồng và cả hệ thống chính trị. Nhưng nếu người dân không đồng hành, không chủ động đi khám khi có dấu hiệu nghi ngờ, thì chúng ta sẽ vẫn bỏ lỡ quá nhiều ca bệnh – và quá nhiều cơ hội cứu người”.