LTS: Những ngày này, cả nước đang hướng tới kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Cũng những ngày này, ngoại giao Việt Nam đang chuẩn bị kỷ niệm 70 năm thành lập ngành (28/8/1945-28/8/2015) cũng là 70 năm đối ngoại Việt Nam đồng hành cùng dân tộc. Nhân dịp này, Đại Đoàn Kết điện tử xin trân trọng giới thiệu về những con người những sự kiện đáng nhớ góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung và góp phần ghi dấu ấn của đối ngoại nói riêng.
Anh Ba Khiêm, người con kiên trung và nhân hậu:
Bộ trưởng Ung Văn Khiêm
1.-Bộ trưởng Ung Văn Khiêm, mà anh em chúng tôi quen gọi bằng cái tên thân thương “Anh Ba” hoặc “Anh Ba Khiêm”, sinh năm 1010 tại một vùng đất địa linh nhân kiệt, với những cù lao (đảo) phù sa trù phú của tỉnh An Giang, nơi sản sinh nhiều bậc hiền tài như Chủ tịch Tôn Đức Thắng, sinh tại cù lao Ông Hổ. Bộ trưởng ngoại giao Ung Văn Khiêm và Bộ trưởng Y tế, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng cùng chào đời tại cù lao Gieng. Hai trăm năm trước đó, vào năm 1700 Cù lao Ông Chưởng, nối liền sông Tiền và sông Hậu, vinh dự được đón tiếp Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh khi ngài được Chúa Nguyễn cử làm Thống đốc kinh lược xứ Đồng Nai với nhiệm vụ khai hoang, mỡ cỏi, dàn xếp biên cương.
Hào khí Cửu Long và truyền thống gia đình là tiền đề đưa anh thanh niên Ung Văn Khiêm sớm đến với tư tưởng yêu nước, cách mạng Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Bị đuổi khỏi trường trung học Cần Thơ vì bênh vực một bạn học bị tên giám thị người Pháp ức hiếp, nhất là vì tổ chức bãi khóa để tang nhà chí sĩ Phan Châu Trinh. Năm 1927 Ung Văn Khiêm tham gia Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội; năm 1928 bí mật sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp “huấn luyện chính trị đặc biệt” do Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Trở về nước, anh Ba Khiêm, thuộc lớp người “khai sơn phá thạch”, ra sức du nhập và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
2.-Trong 18 năm hoạt động bí mật và 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, anh Ba Khiêm đảm nhiệm nhiều trọng trách khác nhau như: Bí thư đặc khu An Nam cộng sản Đảng các tỉnh Hậu giang, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ phụ trách nội vụ, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương cục miền Nam, Bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Bạc Liêu- căn cứ địa của toàn Nam Bộ… Dù ở bất cứ cương vị nào, hoàn cảnh nào, anh Ba Khiêm luôn thể hiện bản lĩnh của một người lãnh đạo kiên trung, năng động, sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn nhiệt tình với tri thức cách mạng, lý luận với thực tiển, đặc biệt có tấm lòng nhân hậu.
Anh Ba Khiêm bắt đầu cuộc đời làm cách mạng bằng cách đi “vô sản hóa”, tự nguyện làm phu xe kéo để thông cảm với nổi nhọc nhằn của những người lao động tay chân. Năm 1931 bị địch bắt giam tại khám lớn Sàigòn. Tháng 3-1933, Tòa đại hình Sàigòn xử một “vụ án khổng lồ” gồm 121 lãnh đạo cộng sản, trong số đó có anh Ba Khiêm. Bị đày ra Côn đảo, anh Ba Khiêm kết bạn với nhiều nhà lãnh đạo khác của Đảng, nhất là anh Hai Thắng (tức Chủ tịch Tôn Đức Thắng sau này), vừa là đồng chí chiến đấu vừa là đồng hương. Năm 1936 mản tù, về đất liền hoạt động công khai trong tổ chức Mặt trận bình dân các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Năm 1939 lại bị bắt giam tại nhà tù tỉnh Long Xuyên, sau đó bị đưa đi trại tập trung Tà Lài (tỉnh Đồng Nai), nhưng trốn thoát nhờ mưu trí.
Đối diện với quân thù, anh Ba Khiêm chẳng những giữ khí tiết bất khuất của người cộng sản, mà còn có cách ứng xử lịch sự, thông minh, làm chúng phải kính nể. Cho tới tận bây giờ, bà con cù lao Gieng vẫn còn trầm trồ khen ngợi cách ăn mặc “bảnh bao” và cuộc đối đáp thú vị giữa Anh Ba với tên quận trưởng Chợ Mới lúc anh đến trình diện khi ra tù. Hôm ấy anh Ba Khiêm mặc bộ complet tussor, áo sơ mi trắng, mang cà vạt đỏ, đầu đội nón nỉ hiệu phờ-lê-sê (Flécher) đắt tiền. Tên Quận trưởng bị bất ngờ, trừng mắt, nhưng vẫn nói với giọng “nắn gân”:
-Chú còn trẻ quá. Tôi có thể giúp chú một chỗ làm xứng đáng. Nếu chú chịu cộng tác với nhà nước Pháp, thì…tôi sẳn sàng giúp đỡ.
Anh Ba Khiêm cười dễ thương, đáp:
-Cám ơn tấm lòng tốt của ông. Có lẽ ông lầm tôi với một người khác nào đó…Để khỏi mất thì giờ của ông và của tôi, tôi xin phép cáo từ để về Cù lao Gieng thăm gia đình. Tôi là người trọng pháp luật, đến đây vì trong công văn phóng thích có ghi rõ: “phải trình diện ngay chính quyền địa phương khi về tới nguyên quán”.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, là người phụ trách công việc nội vụ, anh Ba Khiêm đề xuất nhiều chủ trương chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa sáng tạo, sát thực tế , hợp lòng dân, có sức mạnh tăng cường lực lượng kháng chiến và khối đại đoàn kết dân tộc. Hưởng ứng Chỉ thị nổi tiếng số 4/NV năm 1947, do Ủy viên nội vụ Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ Ung Văn Khiêm ký tên, hàng ngàn công tư chức, bao gồm nhiều giáo sư, bác sĩ, đốc phủ sứ nổi tiếng, bỏ hàng ngủ địch, ra bưng biền tham gia kháng chiến.
Phong trào vận động địa chủ hiến điền của các tỉnh miền Tây Nam Bộ (Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Gía, Bạc Liêu…) thu được nhiều trăm ngàn hécta ruộng để “tạm cấp” (trong thực tế là cấp vĩnh viễn) cho dân cày. Nhiều địa chủ kháng chiến như cụ Cao Triều Phát, ông Huỳnh Thiện Lộc v.v… hiến hàng chục ngàn hécta ruộng. Nhờ vậy, chủ trương “người cày có ruộng” sớm được thực hiện bằng cách vận động địa chủ “khai minh” hiến điền, mà không cần “đấu tố”.
Đờn ca tài tử cải lương là một loại hình nghệ thuật dân gian ăn sâu vào máu thịt người dân Nam Bộ. Thế nhưng không hiểu tại sao, trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, bị cấm đoán vì lý do “ủy mị”. Ủy viên nội vụ Ung Văn Khiêm liền ra chỉ thị hủy bỏ chủ trương “bất thành văn” và không hợp lòng dân đó. Từ đó đến nay, phong trào đờn ca tài tử cải lương phát triển mạnh mẽ chẳng những ở Nam Bộ và lan tỏa ra cả nước, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
3.-Sau Hiệp định Genève năm 1954 về Việt Nam, anh Ba Khiêm chuyển sang lãnh đạo một mặt trận đấu tranh mới, mặt trận ngoại giao, với tinh thần kiên định, chủ động tiến công và với tấm lòng nhân hân hậu như xưa.
Hồi ấy cơ ngơi Bộ Ngoại giao chỉ gồm một tòa nhà nhiều nóc, tọa lạc tại số 1 đường Tôn Thất Đàm, quận Ba Đình. Một số cán bộ nhân viên, trong đó có tôi, ăn ở ngay trong Bộ. Sáng sáng, anh Ba Khiêm chạy bộ từ nhà ở của anh tại số 10 Khúc Hạo qua nhà Bộ Ngoại giao, cùng chúng tôi tập thể dục, trò chuyện thân mật như giữa đồng chí, anh em với nhau. Anh rất quan tâm sự tiến bộ của cán bộ trẻ, chủ động cho anh chị em được đi học văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ trong và ngoài nước, mặc dù điều đó khiến anh phải mất công sức hướng dẫn công việc cho người mới. Bản thân tôi được đào tạo cơ bản và có hệ thống về kiến thức ngoại giao là nhờ tấm lòng nhân hậu của anh Ba Khiêm, bởi vì lúc đó tôi làm thư ký cho anh, không thuộc diện được xét duyệt để đi học. Không riêng gì tôi, tất cả những người giúp việc cho anh, sau một thời gian ngắn công tác, đều được anh cho đi học Trường Đảng cao cấp hoặc Học Viện Quan hệ quốc tế ở Liên Xô, Trung Quốc.
Trong hơn 10 năm giữ cương vị Thứ trưởng, rồi Bộ trưởng Ngoại giao và Trưởng Ban đối ngoại Trung ương Đảng, anh Ba Khiêm khẩn trương lãnh đạo xây dựng ngành, đào tạo cán bộ về chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ để triển khai thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại nhiều hướng nhằm tranh thủ bạn bè gần xa ủng sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nước ta trong tình hình mới, lên án Mỹ-Diệm phá hoại Hiệp định Genève, vận động một giải pháp thương lượng cho miền Nam Việt Nam theo tinh thần lập trường bốn điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Thời gian làm Trưởng Đoàn đại biểu nước ta tham dự Hội nghị Genève về Lào năm 1961-1962 là thời cơ thích hợp để bộ trưởng Ung Văn Khiêm tiếp xúc với một vài chính khách tiêu biểu của miền Nam lưu vong tại Pháp, như cựu Thủ hiến Nam phần Việt Nam Trần Văn Hữu, để tranh thủ sự đồng tình đối với một giải pháp “theo kiểu Lào” đối với miền Nam Việt Nam. Tuy kế hoạch không thực hiện được do Ngô Đình Diệm phát động chiến dịch báo chí bôi nhọ Trần Văn Hữu, chống lại mọi giải pháp hòa bình, trung lập, nhưng thiện chí của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận dân tộc giải phòng miền Nam Việt Nam được dư luận quốc tế đống tình ủng hộ.
4.- “Thuộc lứa học trò đầu của Nguyển Ái Quốc, sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Ung Văn Khiêm tiếp thu tính nhân văn, tính quần chúng ...Đó là một người cộng sản trung kiên và tiêu biểu…, một con người gần gũi với mọi người…,đầy tình cảm và lòng nhân ái…,sống cởi mở, khoáng đạt, tôn trọng lớp trẻ, có tấm lòng độ lượng, vị tha…, và muốn ai cũng giác ngộ qua cảm hóa, thuyết phục…Nếu có một người có quyền mà không thích sử dụng quyền, phải nói đó là đồng chí Ung Văn Khiêm”. Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt, thay mặt Đảng và Nhà nước, đã nhận xét vể Bộ trưởng Ung Văn Khiêm như vậy trong lời vĩnh biệt anh Ba Khiêm ngày 22 -3- 1991. Đó cũng là tấm lòng của chúng tôi, lớp đàn em và học trò của Anh Ba, đó là sự tiếc thương vô hạn của đồng bào, đồng chí, đối với một người lãnh đạo kiên trung và nhân hậu.
Ông Ung Văn Khiêm (13/2/1910-20/3/1991) là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ 2/1961 đến 4/1963 Là nhà ngoại giao xuất sắc thuộc thế hệ học trò đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Ung Văn Khiêm đã có những đóng góp nổi bật vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Ngành trong những năm đầu thập kỷ 1960, phục vụ sự nghiệp khôi phục và phát triển đất nước, tiếp tục đề cao Hội nghị Geneva, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, tăng cường đoàn kết 3 nước Đông Dương, mở rộng quan hệ với các nước XHCN và dân tộc chủ nghĩa, đồng thời tích cực phối hợp với các hoạt động đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Về xây dựng Ngành, Bộ trưởng Ung Văn Khiêm đã đưa Bộ Ngoại giao phát triển thêm một bước mới bằng việc xây dựng bộ máy tổ chức, nội dung công tác của Bộ, của từng đơn vị và quy định chế độ, lề lối làm việc, phối hợp thống nhất công tác đối ngoại theo Nghị định 157/CP của Chính phủ. Năm 1955, ông được cử làm Thứ trưởng Ngoại giao kiêm Hiệu trưởng Trường Cán bộ ngoại giao-ngoại thương (thuộc Bộ Ngoại giao) và Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng. Theo Đại sứ Phạm Ngạc, "Thứ trưởng Ngoại giao đầu tiên ngồi làm việc tại ngôi nhà nhiều mái hiện nay là Ông Ung Văn Khiêm (lúc đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao)". |
Võ Anh Tuấn (*)
-------------