Trong dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cũng như mọi năm, đúng “sinh nhật” báo Giải Phóng, chúng tôi lại về với Bến Ra - căn cứ của Tòa soạn ở Chiến khu Bắc Tây Ninh. May mắn là dải rừng dọc thượng nguồn sông Vàm Cỏ (nay thuộc Vườn Quốc gia Lò Gò - Xa Mát) vẫn vẹn nguyên màu xanh đại ngàn, vẫn lưu giữ phần nào dấu tích của căn cứ báo Giải Phóng có từ 61 năm trước.
1. Nơi đây, tháng 6/2017, chúng tôi đã dựng tấm bia bằng đá hoa cương cao 2,7 mét, mặt trước khắc cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và măng-sét Giải Phóng đúng nguyên bản; mặt sau khắc họ tên 236 người đã làm việc ở báo Giải Phóng trong chiến tranh, từ chị nuôi, bảo vệ, công nhân nhà in đến phóng viên và các cấp lãnh đạo, đặc biệt trong đó có 17 liệt sĩ.
Như nhà báo Kim Hoa - Giám đốc Bảo tàng Báo chí Việt Nam chia sẻ trong sự kiện trưng bày chuyên đề lịch sử báo Giải Phóng và trình chiếu phim “Giải Phóng - tờ báo trên tuyến lửa” tại Hà Nội, ngày 18/12/2020: “Không ai, không điều gì bị lãng quên. Máy ảnh, máy rọi ảnh, áo tối để thay phim, sổ tay, bản thảo, ngòi bút, cây súng, những tờ báo Giải Phóng in giữa rừng là hiện vật vô giá được Bảo tàng sưu tầm, lưu giữ. Và phim tài liệu “Giải Phóng - tờ báo trên tuyến lửa” là một biểu tượng của báo chí cách mạng Việt Nam - đã tái hiện được tình yêu Tổ quốc, tình yêu nghề và ý chí của một đội ngũ làm báo trong những năm tháng vô cùng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ”.
Trong sự kiện ấy, nhiều đại biểu đề nghị Nhà nước sớm phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho báo Giải Phóng, bởi cũng như Thông tấn xã Giải phóng, Đài Phát thanh Giải phóng, báo Giải Phóng rất xứng đáng với danh hiệu cao quý ấy.
Trong một bài viết đăng Báo Đại Đoàn Kết số Tết năm 2020, tôi ví anh chị em công tác ở báo Giải Phóng trong chiến tranh y như tảng nước đá, cứ tan chảy dần, đã tan chảy dần, năm này còn bự, vài ba năm sau vơi mất một phần năm, một phần sáu, có năm vơi nhiều hơn, cho nên nếu khi được phong tặng danh hiệu anh hùng thì không còn mấy ai. Nói vậy chứ chúng tôi là những người luôn lạc quan, lạc quan không kém thời chiến tranh giữ nước đạn bom rần trời mà đi mặt trận về, đứa nào chưa chết là cứ họp nhau bên bàn trà, bên tán cây bằng lăng tím hoa một khoảng trời, hay dưới rợp trời cánh trái dầu chao liệng trong gió rồi đáp xuống nhờ đất nhân giống nòi, cười nói vô tư, vô tư khoe bản thảo, vô tư khoe những cuộn phim chưa tráng, dù bản thảo và những cuộn phim ấy có khi nhuộm máu chiến sĩ, nhuộm máu đồng nghiệp. Chúng tôi lạc quan vì tin chắc kháng chiến nhất định thắng lợi, lạc quan vì sẵn sàng hy sinh thay đồng nghiệp, miễn là báo Giải Phóng ra đúng kỳ, có nhiều bài, nhiều tin, nhiều ảnh Quân Giải phóng đọc thấy có chiến công của mình trong đó, báo gửi vào nội thành Sài Gòn ai đọc được cũng thấy “Việt cộng” có tờ báo tử tế, dù chỉ 4 trang khổ lớn hay 8 trang khổ nhỏ.
2. Xin được ngược thời gian. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập ngày 20/12/1960, nhưng bốn năm sau cơ quan ngôn luận là báo Giải Phóng mới ra đời, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ nhiệm, nguyên nhân là lúc ấy mới được “in nhờ” ở Nhà in Trần Phú của Ban Tuyên huấn Trung ương Cục. Từ đó cho đến số báo cuối cùng (chúng tôi gọi là báo trong rừng) ra ngày 3/5/1975, trong 10 năm xuất bản được 375 số báo in (sau Tết Mậu Thân 1968 có nhà in riêng) và hàng trăm bài báo là “báo nói”, phát trên Đài Phát thanh Giải phóng vì trong trận càn Junction City (từ ngày 22/2 đến 15/4/1967), quân Mỹ đánh vào căn cứ, đã “cẩu” máy in của Ban Tuyên huấn Trung ương Cục về Sài Gòn, và trong tháng 4/1970 phải sơ tán nhà in vì cuộc càn Đông Dương của 10 vạn quân Mỹ và quân Sài Gòn hòng đánh chiếm “đất thánh” của “Việt cộng”.
Mỗi lần trở lại Bến Ra, chúng tôi càng bồi hồi nhớ đến Nguyễn An Liêu, Nguyễn Hoàng Minh, Bùi Dũng Thành hy sinh ngay tại căn cứ khi cùng đội du kích báo Giải Phóng đánh trả trận càn Junction City, càng nhớ phóng viên Quốc Hùng hy sinh trong đợt tổng tiến công 1968 tại Sài Gòn và 13 anh chị em hy sinh trên các chiến trường Nam Bộ; càng nhớ nhà báo Thép Mới là đặc phái viên của Trung ương cùng phóng viên Cao Kim của báo Giải Phóng được Ban Tuyên huấn Trung ương Cục cử vào Sài Gòn chuẩn bị xuất bản báo Giải Phóng ở nội ô, địch phản kích quyết liệt, báo không ra được, Cao Kim trở thành người lính chiến đấu cho đến khi được lệnh rút lui. Càng nhớ hai cô gái Hồ Thị Bao, Nguyễn Thị Liên là nhân viên của báo được lệnh gia nhập một đơn vị biệt động Sài Gòn, bị địch bắt trong chiến dịch Mùa Xuân 1975. Lại da diết nhớ nhà báo Mai Trang tròn ba năm hoạt động bí mật trong lòng đối phương…
Mỗi lần trở lại căn cứ, chúng tôi càng nhớ những ngày cuối tháng 3, đầu tháng 4/1975, ngoài những phóng viên đang ở các mặt trận, cả Tòa soạn rộn ràng chuẩn bị cho ngày giải phóng miền Nam. Rồi ngày 6/4 năm ấy, đội xung kích báo Giải Phóng được thành lập do nhà báo Nguyễn Văn Khuynh dẫn đầu, trong đội hình Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, cùng đại quân tiến vào Sài Gòn. Bốn ngày sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng, ngày 5/5/1975, Tòa soạn báo Giải Phóng chưa chuyển xong “cơ ngơi” từ rừng về, đã nhận lệnh xuất bản nhật báo Sài Gòn Giải Phóng khổ lớn, xuất bản được 15 số với hàng chục vạn bản mỗi số mà không đủ bán, sau đó chúng tôi bàn giao cho Thành ủy Sài Gòn - Gia Định rồi tiếp tục xuất bản nhật báo Giải Phóng và tuần báo Giải Phóng Chủ nhật cho đến ngày 23/1/1977 thì “hoàn thành nhiệm vụ lịch sử”.
3. Buổi gặp mặt hằng năm do Ban Liên lạc báo Giải Phóng tổ chức, năm nào chúng tôi cũng lập bàn thờ anh chị em hy sinh hay mất vì ốm đau, vì tuổi già sau chiến tranh. Thay cho di ảnh, phía trên bàn thờ treo trang trọng bản danh sách ghi đầy đủ họ tên những đồng nghiệp hy sinh, đã khuất. Có năm anh Phan Anh Tuấn - chủ nhiệm Ban Liên lạc vừa thắp nhang vừa tuyên bố: “Tôi mới bổ sung vào danh sách anh em đã chết hai người”. Anh vô tình “bổ sung” người mất như thể bổ sung nhân sự cho tờ báo mà không hay các bà già bây giờ đã từng là những cô gái mơn mởn tuổi xuân trong chiến khu, đang lau nước mắt!
Mỗi lần họp mặt, nguyên quân số của báo Giải Phóng thưa dần, ít dần. Phải rồi, người làm báo kháng chiến bây giờ như tảng nước đá đang tan chảy. Nhưng chúng tôi luôn tự hào là tảng nước đá này hoàn toàn “sạch”, sạch đến tinh khiết, nên khi nó trở lại là nước thì cũng trong veo như nước suối rừng thời rừng già là chiến khu góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh giữ nước...