Dự thảo Luật Dầu khí sửa đổi sau khi tiếp thu, chỉnh lý gồm 11 chương và 68 điều. Bỏ 5 điều, bổ sung 9 điều so với dự thảo luật đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 3.
Ngày 16/8, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Dầu khí sửa đổi. Liên quan đến nhiều ý kiến đề nghị rà soát, hoàn thiện các quy định về điều tra cơ bản về dầu khí, ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo luật đã chỉnh sửa tại Điều 9 theo hướng bổ sung quy định về: cơ chế thực hiện, hình thức tổ chức thực hiện đề án điều tra cơ bản về dầu khí; nhiệm vụ chủ trì của Bộ Công thương và giao Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung cụ thể.
Ông Thanh cũng cho hay, có ý kiến đề nghị không quy định kinh phí điều tra cơ bản về dầu khí từ nguồn ngân sách nhà nước. Ý kiến khác đề nghị phân định rõ trường hợp bố trí chi phí từ ngân sách nhà nước; đối với hoạt động của doanh nghiệp thì doanh nghiệp tự cân đối.
Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, công tác điều tra cơ bản về dầu khí là nhiệm vụ điều tra, khảo sát ban đầu phải thực hiện để đánh giá tiềm năng, triển vọng dầu khí làm căn cứ khoa học cho việc định hướng hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí. Khi phê duyệt danh mục đề án điều tra cơ bản về dầu khí sẽ xác định cụ thể về nguồn kinh phí đối với mỗi đề án. Tuy nhiên, công tác này có tính rủi ro cao, nhu cầu vốn lớn, cần huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân khác ngoài nguồn ngân sách nhà nước để thực hiện. Khoản 4 Điều 9 đã quy định cụ thể trách nhiệm phê duyệt, kiểm tra, giám sát của Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và môi trường và các bộ, ngành có liên quan. Đối với kinh phí của PVN thực hiện điều tra cơ bản về dầu khí, khoản 1 Điều 63 dự thảo Luật đã quy định chi phí này được thanh toán bằng nguồn lợi nhuận sau thuế của PVN.
Giải trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, thời gian qua cơ quan chủ trì soạn thảo đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan chủ trì thẩm tra và các cơ quan có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến của các ĐBQH tại Kỳ họp thứ 3 để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật nhằm giải quyết 6 nhóm chính sách đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 17. Đến nay, hầu hết các điều khoản của dự án luật đã được cơ quan chủ trì thẩm tra và cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất.
Theo ông Diên, dự thảo luật sau khi tiếp thu, chỉnh lý gồm 11 chương và 68 điều, bỏ 5 điều, bổ sung 9 điều so với dự thảo luật đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 3. Theo đó, đã thể chế hóa cơ bản đầy đủ các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước tại Nghị quyết số 41 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035, Nghị quyết 36 của Ban Chấp hành Trung ương đảng Khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
“Dự thảo luật đã được rà soát, chỉnh lý bảo đảm sự thống nhất, tương thích, đồng bộ của dự án luật với hệ thống pháp luật hiện hành và các dự án luật thuộc chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, đồng thời bảo đảm phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế”-ông Diên cho hay.
Đề cập đến phê duyệt hợp đồng dầu khí, ông Diên bày tỏ quan điểm Bộ Công thương đề nghị thực hiện theo phương án 2 khoản 1 Điều 24 dự thảo luật là giữ nguyên như phiên bản Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 3. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt toàn bộ nội dung của hợp đồng dầu khí. Đồng thời, Chính phủ ban hành hợp đồng mẫu của hợp đồng chia sản phẩm dầu khí.
Lý do theo ông Diên là bởi tại dự thảo luật, Chính phủ đã phân cấp nhiều nội dung cho Bộ Công Thương và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, chỉ còn một số nội dung rất quan trọng thuộc thẩm quyền phê duyệt, chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ gồm: kết quả lựa chọn nhà thầu, nội dung hợp đồng dầu khí, gia hạn hợp đồng dầu khí trong trường hợp đặc biệt, chuyển nhượng quyền lợi tham gia trong hợp đồng dầu khí.
Hợp đồng dầu khí là thoả thuận ràng buộc pháp lý giữa Nhà nước và nhà đầu tư có thời hạn rất dài, thậm chí hơn 30 năm, có nhiều nội dung đặc thù liên quan đến quốc phòng, an ninh, chủ quyền, mặt biển. Các điều khoản của hợp đồng dầu khí liên quan mật thiết với nhau, do đó rất khó phân định các điều khoản chính, điều khoản phụ. Do vậy, việc quy định thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt toàn bộ nội dung hợp đồng dầu khí là phù hợp thực tiễn hoạt động dầu khí tại Việt Nam. Bộ Tư pháp cũng đã thống nhất với quan điểm này của Bộ Công thương.
Về chính sách khai thác tài nguyên đối với mỏ dầu khí khai thác tận thu, ông Diên cho biết, Bộ Công thương thống nhất với ý kiến của Ủy ban Kinh tế. Theo đó chênh lệch giữa doanh thu và chi phí thực hiện khai thác tài nguyên đối với mỏ dầu khí khai thác tận thu được nộp vào ngân sách nhà nước và bảo đảm kiểm soát chặt chẽ chi phí hoạt động dầu khí. Cùng với việc kiểm soát chặt chẽ chi phí hoạt động dầu khí, quy định này sẽ tạo cơ chế đột phá mang tính khả thi để khai thác tận thu tài nguyên dầu khí, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước kể cả trong trường hợp doanh thu trừ chi phí thấp hơn thuế tài nguyên phải nộp thay vì phải kết thúc sớm dự án khai thác tận thu.