Trong kho tàng văn hóa xứ Nghệ, huyện Nghi Xuân có nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian như: Vè, hò, ví, dặm, diễn tích trò Kiều, hát tuồng, hát ru, ngâm Kiều, sắc bùa… Riêng ca trù Cổ Đạm có một vị trí rất đặc biệt.
Trải qua hàng nghìn năm, ca trù Cổ Đạm vẫn còn sức hút lạ kỳ.
Di sản văn hóa phi vật thể
Tương truyền, “đất tổ” của ca trù là ở xã Cổ Đạm (Nghi Xuân). Chuyện kể rằng, xưa dưới chân núi Hồng Lĩnh có một chàng trai tên là Đinh Lễ vốn học rộng tài cao nhưng không màng công danh khoa cử mà chỉ thích ngao du sơn thủy với tiếng hát cây đàn.
Có lần chàng đi sâu vào núi Ngàn Hống gặp được hai vị tên là Lã Đồng Tân và Lý Thiết Quài, được tiên ông cho một mẩu gỗ ngô đồng và bản vẽ cây đàn. Về nhà, chàng theo mẫu làm thành cây đàn gọi là đàn đáy, khi cất lên, chim, cá cũng ngơ ngẩn lắng nghe. Với cây đàn, chàng đi khắp nơi dạy cho nhân gian những điệu hát làm say đắm lòng người mà ngày nay vẫn gọi là ca trù.
Có lần, chàng đến châu Thường Xuân (Thanh Hóa). Viên quan châu ở đây tên là Bạch Đình Sa có nàng con gái tên gọi Bạch Hoa, tuổi đã tròn đôi muơi mà chưa biết nói. Khi nghe tiếng đàn Đinh Lễ, cô gái đang ăn cơm liền lấy đũa gõ vào mâm theo nhịp tiếng đàn. Quan châu cho mời Đinh Lễ vào nhà đàn hát và khi dứt tiếng đàn, Bạch Hoa cất lên được tiếng nói.
Cho là duyên kỳ ngộ, Bạch Đình Sa tác hợp cho hai người nên đôi lứa. Đinh Lễ đưa Bạch Hoa về Cổ Đạm dạy đàn hát cho trai gái trong vùng. Từ đó đất này thịnh hành lối hát gọi là ca trù. Về sau cả hai đều không bệnh về trời. Dân Cổ Đạm lập đền thờ, phong làm tổ sư của ca trù.
Vào thế kỷ XVII, ca trù rất thịnh hành và đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, với sự đóng góp to lớn của Nguyễn Công Trứ, ca trù ở Nghi Xuân trở nên nổi tiếng trong thiên hạ. Tuy nhiên, đến thời Pháp thuộc, ca trù chìm lắng dần. Những năm cuối thập niên 90, với chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cùng với các địa phương khác trên cả nước có ca trù, Sở Văn hóa -Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh đã tổ chức hội thảo về ca trù và cũng bắt đầu từ đây ca trù Cổ Đạm được khôi phục và bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Ngày 1/10/2009, UNESCO công nhận ca trù là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Những năm tiếp theo được nhiều ban, ngành quan tâm khôi phục, ca trù dần có được hơi thở và sức sống mới.
Nỗ lực trao truyền
Ở Nghi Xuân đang song song tồn tại 2 câu lạc bộ ca trù: Nguyễn Công Trứ và Cổ Đạm, với số lượng thành viên dao động từ 30-50 người. Mỗi khi cất lên tiếng phách, tiếng đàn, các ca nương, kép đàn ở đây như đắm mình vào một thế giới chỉ có âm nhạc. Cứ ngỡ những cặp nương, kép kia không vướng bận với nỗi lo cơm áo gạo tiền… Nhưng thực tế lại rất phũ phàng.
Kép đàn Trần Văn Đài- chủ nhiệm CLB ca trù Cổ Đạm chia sẻ: Vì lòng đam mê và mong muốn giữ lại nét văn hóa quý giá của quê mình, mấy năm nay vợ chồng chúng tôi (vợ là ca nương Dương Thị Xanh) đã nhận nhiệm vụ khôi phục lại ca trù. Lúc mới thành lập, CLB có khoảng 40 thành viên với đầy đủ 3 thế hệ nhưng hiện nay chỉ duy trì được từ 8 đến 15 người. CLB quy định sinh hoạt vào tối thứ 3 và 5 hàng tuần nhưng rất khó để tuân thủ mà chỉ sinh hoạt theo mùa vụ, lúc nông nhàn, mùa hè hoặc có hội thi thì mới tổ chức tập diễn được. Đến giờ, hát ca trù không thể nuôi sống được gia đình, vợ tôi cũng phải từ bỏ đam mê để đi xuất khẩu lao động, kiếm kế sinh nhai.
Về cái nôi của ca trù ở xã Cổ Đạm, chúng tôi cố tìm nghệ nhân thuộc thế hệ đời trước, với mong muốn được nghe những “báu vật sống” ngân lên những lời ca cổ đã từng một thời làm đắm say những bậc quý nhân quân tử nhưng rất khó khăn. Ở làng giờ chỉ còn nghệ nhân Trần Thị Gia nhưng cụ đã hơn 90 tuổi nên không thể cất được tiếng hát lảnh lót như xưa. Điều lấy làm day dứt là dường như loại hình nghệ thuật này vẫn chiếm giữ một cõi thiêng liêng trong lòng mỗi người dân Cổ Đạm, song có những lý do bất khả kháng mà ca trù dần phai nhạt ngay tại chính quê hương của nó.
Phó giám đốc Trung tâm văn hóa huyện Nghi Xuân Trần Thị Cảnh - người gắn bó lâu đời với ca trù chia sẻ, trên địa bàn huyện chỉ còn 2 CLB ca trù ở đền thờ Nguyễn Công Trứ và xã Cổ Đạm. “Cái tâm của những người tham gia CLB ca trù Nguyễn Công Trứ và Cổ Đạm là mong muốn lưu truyền và phát triển môn nghệ thuật này, nhưng càng ngày chúng tôi càng lo mất đi di sản quý giá của ca trù, vì nó ít được quan tâm đầu tư. Trước đây, phong trào hát ca trù đã có thời nở rộ, dao động từ 40 đến 70 người, chúng tôi đã sưu tầm được 21 làn điệu, phổ biến rộng rãi được 10 làn điệu... Nhưng hiện nay số lượng người tham gia ở 2 CLB nói trên chỉ còn khoảng 35 người và các làn điệu vẫn chưa được phục dựng thêm”, chị Cảnh buồn bã nói.
Một trong những nguyên do chính khiến “cái nôi” ca trù không thể phát triển được chính là không có sự quan tâm đầu tư xác đáng. Chỉ có 3 ca nương, kép đàn được hợp đồng vừa dạy, vừa biểu diễn ở di tích Nguyễn Công Trứ mỗi tháng được nhận 1.150.000 nghìn đồng, tiền phí sinh hoạt của CLB hoàn toàn không có. Một số nghệ nhân đã được tôn vinh nhưng một phần do tuổi tác, một phần không được trọng dụng nên họ không còn nhiệt huyết được như xưa.
Thời gian qua, huyện Nghi Xuân đã nỗ lực trao, truyền, đào tạo hát ca trù cho giới trẻ, chú trọng trong các trường học nhưng vì theo nghiệp ca trù không thể nuôi sống được bản thân nên hễ đào tạo được một người thực hành thành thục thì họ phải “dứt áo” ra đi kiếm sống. Những “hạt nhân đầu đàn” như ca nương Dương Thị Xanh, Dương Thị Nết, Nguyễn Thị Minh Ngọc đã tạm thời “giải nghệ” để sang xứ người tìm kế mưu sinh.
Những người làm công tác văn hóa ở Hà Tĩnh luôn đau đáu nỗi niềm là làm “sống” dậy loại hình nghệ thuật truyền thống do cha ông để lại. Sở VH-TT-DL Hà Tĩnh đang xây dựng đề án khôi phục và phát triển ca trù nhưng đang là câu chuyện khó.
Mới đây, trong khi hát xoan ở Phú Thọ đã thoát khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp thì ca trù vẫn dẫm chân tại chỗ. Việc đưa ca trù thoát ra khỏi sự bảo vệ khẩn cấp cần phải có sự chung tay của cả cộng đồng. 15 tỉnh, thành trên cả nước có ca trù cần kết nối với nhau dưới sự chủ trì của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch xây dựng một chương trình hành động quyết tâm đưa ca trù thoát khỏi sự bảo vệ khẩn cấp thì loại hình di sản phi vật thể này mới có “cửa” để “sống”.