Cảm hứng về đất nước, về Tổ quốc đã trở thành một mạch nguồn xuyên suốt, hun đúc nên những tác phẩm đi cùng năm tháng. Trong suốt 80 năm qua, văn học Việt Nam hiện đại luôn gắn bó mật thiết với vận mệnh dân tộc, phản chiếu từng bước thăng trầm của đất nước, từ những năm kháng chiến gian khổ đến thời kỳ xây dựng, đổi mới và hội nhập.
Từ những tác phẩm hào hùng thời kháng chiến đến những lời thì thầm của ký ức cá nhân ngày nay, hình tượng Tổ quốc trong văn học Việt Nam liên tục được viết lại. Mỗi thế hệ, bằng thi pháp và ngôn ngữ của mình, dựng lên những góc nhìn mới về đất nước - vừa thiêng liêng vừa thân mật - để tình yêu Tổ quốc không ngừng được trao truyền và tái khám phá.
Khi đọc lại thơ ca và văn xuôi thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, điều ta gặp trước hết là một nhịp lớn của cộng đồng - nhịp của lịch sử, của trách nhiệm. Văn chương trong giai đoạn ấy không chỉ ghi chép mà còn kiến tạo, không chỉ diễn tả mà còn kêu gọi. Tổ quốc hiện lên cả như địa lý cụ thể và như tư thế tinh thần của một dân tộc đứng dậy.
Cảm hứng đất nước trong văn học cách mạng giai đoạn 1945 - 1975 trước hết xuất phát từ hiện thực lịch sử. Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước giành độc lập nhưng phải ngay lập tức bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và sau đó là chống đế quốc Mỹ. Chính hoàn cảnh ấy đã tạo ra một thế hệ nhà văn - chiến sĩ, nhà thơ - chiến sĩ, họa sĩ - chiến sĩ, những người cầm bút đồng thời cầm súng.
Ở mảng văn xuôi, nhiều tác phẩm đã khắc họa sâu đậm hình ảnh đất nước và con người trong kháng chiến. Nhà văn Nguyễn Minh Châu với “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”... luôn gửi gắm một tình yêu quê hương tha thiết. Gần đây, một truyện ngắn của ông - “Những vùng trời khác nhau” - được nhiều người nhắc tới, tìm đọc bởi được lấy ý đưa vào đề thi môn Ngữ văn của kỳ thi THPT. Truyện ngắn kể câu chuyện về hai người lính pháo binh chia tay để chiến đấu ở hai nơi khác nhau, nhưng vẫn cùng gìn giữ một bầu trời Tổ quốc. Trong đó, từ trích đoạn được cung cấp và gợi ý về "bối cảnh đất nước đang có nhiều thay đổi lớn", các thí sinh được yêu cầu viết một bài văn nghị luận với chủ đề: "Vùng trời quê hương nào cũng là bầu trời Tổ quốc".
Cùng thời, nhà văn Tô Hoài với “Vợ chồng A Phủ” đã khắc họa sức sống mãnh liệt của con người miền núi, sức sống ấy khi gắn với cách mạng trở thành sức mạnh giải phóng. Còn các nhà văn Nguyễn Đình Thi với “Vỡ bờ”, Nguyên Ngọc với “Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc, Anh Đức với “Hòn đất” ; Nguyễn Minh Châu với “Dấu chân người lính”… cũng đưa vào trang viết những hình ảnh về quê hương, đất nước như một giá trị thiêng liêng, phải bảo vệ đến cùng.
Ở mảng thơ ca, những sáng tác của thời kỳ này mang tinh thần sử thi và cảm hứng lãng mạn, chan chứa tình yêu quê hương. Không thể không nhắc tới nhà thơ Tố Hữu - lá cờ đầu của thơ ca cách mạng. Sự nghiệp thơ của ông mở ra với tập “Từ ấy” kết tinh tâm thế của một thanh niên giác ngộ lý tưởng: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim…”. Vẫn là Tố Hữu, trong “Việt Bắc”, ông đã viết những câu lục bát đi vào lòng người, vừa ân tình vừa hào hùng: “Ta về, mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người/ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng/ Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người em gái chuốt từng sợi giang/ Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình/ Rừng thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung…”. Và, vẫn là Tố Hữu, trong kháng chiến chống Mỹ, ông đã có hai câu thơ rất nổi tiếng khắc họa chân dung người lính: “Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai…”
Thơ Tố Hữu không chỉ khắc họa tình quân dân, nỗi nhớ chiến khu mà còn dựng lên những tượng đài người mẹ, người chiến sĩ, người lao động bình dị mà kiên cường. Từ mẹ Tơm, mẹ Suốt đến người lao công trên phố Trần Phú, tất cả đều mang một vẻ đẹp của con người Việt Nam gắn bó máu thịt với quê hương, đất nước. Ông cũng có những vần thơ khóc Bác Hồ chan chứa yêu thương (Bác ơi), và những khúc tráng ca như “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” khắc họa chiến thắng lịch sử. Có thể nói, hành trình sáng tác của Tố Hữu là một “biên niên sử bằng thơ” về đất nước qua hai cuộc kháng chiến.
Bên cạnh Tố Hữu, nhiều nhà thơ cùng thời cũng góp phần làm giàu mảng thơ ca đất nước: Chính Hữu với “Đồng chí”, Quang Dũng với “Tây Tiến”, Hữu Thỉnh với “Trên một chiếc xe tăng”, Phạm Tiến Duật với “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Tiểu đội xe không kính”… Mỗi tác phẩm đều chứa đựng tình yêu Tổ quốc và con người Việt Nam bằng giọng điệu riêng.
Trong số những thi phẩm mang nhiều cảm hứng và được nhiều người nhắc tới, có những bài thơ đã trở thành kinh điển. “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi là một trong những bản trường ca mở ra hình dung về Tổ quốc vừa trữ tình vừa sử thi: những câu mở buông nhẹ mùi cốm, mùi thu - “Sáng mát trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới” - nhưng kết thúc bằng một ánh sáng chiến thắng mãnh liệt: “Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Cái mâu thuẫn giữa hình ảnh dịu dàng và hình ảnh rực lửa ấy chính là nhịp điệu tạo nên tính huyền thoại cho Tổ quốc - một thực thể vừa cần được nhớ bằng hơi thở đời thường, vừa cần được bảo vệ bằng máu và lửa.
Trong không khí chiến tranh, hình tượng người lính trở thành một cách khác để hiện thực hóa Tổ quốc. Nhà thơ - chiến sĩ Lê Anh Xuân, với “Dáng đứng Việt Nam”, nén vào vài câu thơ một tư thế, một thái độ, một biểu tượng: “Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất/ Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/ Và Anh chết trong khi đang đứng bắn/ Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng”… Ở đó, cái “đứng” trở thành phép ẩn dụ cho quốc thể: khi người lính còn đứng, đất nước còn đứng; khi anh ngã mà vẫn giữ tư thế, tư thế ấy trở thành tư thế quốc gia.
Tuy nhiên, có một mạch khác song hành - xin tạm gọi là mạch đời thường hóa. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết trong “Đất nước” những câu thơ dung dị mà thiết tha: “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim về, nước là nơi rồng ở...” và: “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm/ Đất Nước là nơi ta hò hẹn/ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…”. Khi nhà thơ đặt mái đình, con đò, hạt gạo, miếng trầu… vào cấu trúc quốc gia, ông làm cho mỗi vật hiện diện phiếm chỉ thành dấu tích tinh thần. Việc lấy “những cái nhỏ” làm hạt nhân cấu thành Tổ quốc cho phép mọi độc giả nhận diện mình trong bản đồ thiêng liêng - và đó là bí quyết của một hình tượng dân gian nhưng sâu sắc.
Nhà thơ Hữu Thỉnh khi nhìn lại mảng văn học về đề tài cách mạng cho chúng ta một cách đọc khác: theo ông, đề tài người lính và chiến tranh được đào sâu ở ba chiều: tình yêu nước, tình đồng đội, tình quân dân. Nhận định này giải thích vì sao thi ca và văn xuôi thời ấy dễ rung cảm mạnh mẽ: nghệ thuật đã nhóm lại các chi tiết đời thường thành biểu tượng và dùng chúng để khẳng định một hệ giá trị chung.
Có thể nói, trong giai đoạn kháng chiến và kháng chiến chống Mỹ, hình tượng Tổ quốc được đúc bằng cả hai nguyên liệu lớn: tâm lý sử thi (hào hùng, tập thể) và chi tiết đời thường (mộc mạc, thân thuộc). Hai luồng ấy không triệt tiêu nhau mà bổ sung, tạo ra một “bản sắc” văn chương mà độc giả tới hôm nay vẫn cảm nhận được sự rung động và tính chính danh của nó.
Khi cuộc chiến lùi lại phía sau và đất nước chuyển mình trong thời bình, các nhà văn, nhà thơ không vì thế rời xa hình tượng Tổ quốc. Ở mảng văn xuôi, thời kỳ này cũng có nhiều tác phẩm mang ghi dấu như “Thời xa vắng” của Lê Lựu, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Bến không chồng" của Dương Hướng... Trong khi đó, các thi sĩ của thời hòa bình đã tìm thấy những lăng kính mới để viết, làm cho Tổ quốc vừa lớn hơn vừa gần hơn. Thay vì chỉ ca ngợi chiến công, văn học hậu chiến quan tâm tới ký ức, tới chủ quyền biển đảo, tới thân phận và cả những cách cá nhân tiếp nhận lịch sử.
Đọc lại văn học 80 năm đồng hành cùng đất nước, ta gặp đủ thứ âm sắc: trầm hùng, hào sảng, thủ thỉ, trăn trở, cảnh báo... Tổ quốc trong thơ và văn xuôi không đứng yên; nó chuyển mình theo nỗi lo, theo hy vọng, theo nhịp sống của cộng đồng. Điều cốt yếu ở đây là truyền thống sáng tác: các thế hệ đã, đang và sẽ tiếp tục tích lũy vốn sống, trau dồi thi pháp để viết ra những hình tượng Tổ quốc vừa có chiều sâu tư tưởng vừa cảm hóa được công chúng.
Một ví dụ nổi bật là trường ca “Tổ quốc nhìn từ biển” của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến. Bài thơ không chỉ là tác phẩm nghệ thuật mà còn là một tiếng nói có trách nhiệm thời sự. Các câu mở như mời gọi: “Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển/ Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng/ Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa/ Trong hồn người có ngọn sóng nào không?”. Ở đó, truyền thuyết và thời sự giao nhau - hình tượng “Mẹ Âu Cơ” được kéo vào không gian biển để đặt vấn đề chủ quyền một cách đầy cảm xúc. Theo tâm sự của chính tác giả, bài thơ ra đời từ chuyến đi thực tế ra Trường Sa trong một trại sáng tác và đã “đồng hành cùng hải quân” ở các thời điểm Biển Đông căng thẳng (2011, 2014, 2019); ông cũng kể rằng có những điều ông cân nhắc kỹ trong từ ngữ để vừa giữ vẻ mềm mại của thơ, vừa không làm yếu đi sức cảnh báo của tác phẩm.
Cùng chủ đề biển đảo, nhưng trước cả Nguyễn Việt Chiến, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã nhiều lần tiếp cận hình tượng biển bằng sự dung dị và tình cảm. Ông có tập bút ký "Đảo chìm" được nhiều người tìm đọc và những bài thơ được đông đảo công chúng yêu thích, trong đó "Thơ tình người lính biển" (1981) là một minh chứng cho cách ông hòa tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước: “Anh ra khơi/ Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng/ Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng/ Biển một bên và em một bên/ Biển ồn ào, em lại dịu êm/ Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ/ Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía/ Biển một bên và em một bên/ Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn/ Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc/ Thăm thẳm nước trời, nhưng anh không cô độc/ Biển một bên và em một bên/ Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên/ Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng/ Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng/ Biển một bên và em một bên...”
Bài thơ vận động giữa hai cực: hết mực lãng mạn và cương trực với nhiệm vụ. “Biển một bên và em một bên” lặp lại như một điệp khúc, đồng thời là phép đối chiếu tinh tế - nghĩa vụ và tình yêu, công dân và người tình - khiến người đọc cảm nhận được chiều sâu tình cảm mà không lệch khỏi tinh thần trách nhiệm.
Nếu Trần Đăng Khoa chạm vào Tổ quốc bằng nhịp điệu dung dị, thì nữ sĩ trẻ Nguyễn Phan Quế Mai lại để Tổ quốc bước vào thơ bằng cả những rung động bản năng và những vết thương lịch sử chưa bao giờ khép miệng. Sinh ra ở Ninh Bình, lớn lên nơi gió mặn Bạc Liêu, hiện sống và viết ở nước ngoài, mang trải nghiệm của nhiều vùng đất, Quế Mai viết về Tổ quốc với một giọng điệu da diết, hiện đại. Tập thơ “Tổ quốc gọi tên mình” đã trở thành một dấu mốc, không chỉ vì nhạc tính mạnh mẽ, mà còn bởi năng lực biến sự kiện nóng bỏng thành hình tượng giàu xúc cảm. Trong bài thơ cùng tên, tiếng gọi ấy vang lên: “Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình/ Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá/ Tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả/ Nơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vây…” Ở đây, biển không chỉ là địa lý - nó là mạch máu mặn của dân tộc, nơi “máu của người nhuộm mặn sóng Biển Đông” và “chín mươi triệu môi người thao thức tiếng Việt Nam”.
Thơ Quế Mai còn ghi dấu bằng những khúc tưởng niệm và tri ân. “Đồng Lộc” nghiêng mình trước 10 cô gái thanh niên xung phong, để “mười dải mềm nối một dải Trường Sơn/ mười ánh mắt đã thành ánh sáng”; “Hai nẻo trời và đất” là cuộc đoàn tụ tưởng tượng giữa những người cha hy sinh và những đứa con chưa từng biết mặt, với câu hỏi ám ảnh: “Mỗi bàn chân tôi đặt trên đất nước/đang đặt lên bao nhiêu thân thể lạnh khói hương trong lòng đất?”. Và “Quảng Trị” là tiếng khóc khản đặc của những người mẹ, nơi “hoa phượng loang tươi đỏ những con đường/còn sâu hoắm vết thương”.
Những vần thơ ấy nối tiếp truyền thống văn học Việt Nam về Tổ quốc, nhưng cũng mang hơi thở của một thế hệ có cơ hội tiếp cận với tri thức và thi pháp hiện đại. Ở Quế Mai, Tổ quốc không chỉ hiện lên trong tư thế sử thi, mà còn trong tiếng thở dài của mẹ, trong bước chân cạn máu, trong sắc đỏ của hoa phượng, trong nỗi thao thức của người con xa xứ. Đó là một bản đồ tình cảm, nơi mỗi tọa độ đều mang dấu vết ký ức và lời hẹn gìn giữ tương lai.
Từ những khúc tráng ca của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Lưu Quang Vũ và rất nhiều tên tuổi khác cho đến những “bản đồ” tình cảm đương đại của Nguyễn Việt Chiến, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Phan Quế Mai…, văn học Việt Nam đã liên tục làm mới hình tượng Tổ quốc. Trong hành trình ấy, Tổ quốc không còn chỉ hiện lên như một khái niệm trừu tượng, mà là tiếng sóng, là bóng mẹ, là bước chân người lính, là giọt nước mắt của những người mẹ Quảng Trị… Sự đa dạng của hình thức và cảm xúc cho thấy một điều: dù ở thời chiến hay thời bình, dù trong thơ mang hơi hướng sử thi hay trong lời tự tình, tình yêu đất nước vẫn là một mạch ngầm bền bỉ, chảy xuyên suốt qua các thế hệ sáng tác. Nó vừa gìn giữ ký ức, vừa nuôi dưỡng hiện tại, vừa gửi gắm những lời hẹn với tương lai - để mỗi khi nhắc đến hai tiếng “Việt Nam”, trong ta lại vang lên những câu thơ, câu văn đã thấm sâu vào tâm khảm.
Từ những câu trường ca rung chuyển lòng dân đến những khúc thơ lặng lẽ giữa sóng gió biển cả, cảm hứng đất nước trong văn học Việt Nam là một mạch chảy đa thanh, luôn tái tạo chính mình. Hình tượng Tổ quốc không đứng yên trên bản đồ; nó sống trong miếng trầu, trong dáng đứng của người lính, trong nỗi nhớ của người ra khơi, trong tiếng ru của mẹ - và qua văn chương, nó được tái sinh mỗi ngày. Viết về Tổ quốc là một nhiệm vụ nghệ thuật và đạo đức; nhiệm vụ ấy đòi hỏi vốn sống, trí tuệ, trách nhiệm và - trên hết - trái tim biết nhớ.