Con gà nhà Mường
Những lúc trời lạnh. Bếp Mường tôi nhà nào cũng đỏ lửa từ tinh mơ đến khuya khuắt. Con người cứ dính lấy bếp lửa, líu ríu nhì nhằng như trai gái phải lòng nhau. Con trâu, con gà cũng co ro chẳng muốn bước chân ra vườn, ra đồi kiếm ăn. Nhà nào cũng chặt lá cọ tươi, giật cọng lá chuối khô, đem buộc vây quanh chuồng gà, chuồng trâu che gió.
Mỗi sáng mai, mẹ trở dậy nhóm xong bếp lửa, việc đầu tiên là đem nhúm mẳn trấu vụn, trộn ngô, xuống sân mở cửa chuồng gà, gọi chúng ra ăn, rồi đếm đi đếm lại, soi ngó kĩ chuồng. Mỗi chập chiều, bắc xong nồi cơm lên bếp,cũng vội vã băm mấy mẩu sắn tươi, đem vãi trước sân gọi chúng về ăn, lại đếm xuôi đếm ngược. Thiếu một con là mẹ vội vã bỏ bếp núc, chạy khắp vườn tìm cho kì được, dù chỉ còn là cái xác cứng quơ ở bụi bờ nào đó thì xách về chôn cẩn thận ở góc vườn. Mẹ tiếc của và cũng thương lũ gà lắm. Mỗi lần mất mát như thế, mẹ rầu rĩ đến sốt ruột. Bọn gà lợn, trâu nghé dưới gầm sàn nhà tôi, được pác mẹ chăm chút, yêu thương như thể chăm con mọn vậy. Có nhiều đêm trời lạnh, lũ gà lục cục dưới gầm sàn, trên nhà hai thân già cũng trằn trọc. Mùa đông trên núi khắc nghiệt, có khi chỉ qua một đêm rét đậm là gia tài của nhà ai đó cũng tiêu tan theo xác những con vật dưới gầm sàn.Trong các con vật người Mường nuôi, trừ con trâu là gia tài lớn, thì gà là con vật được quý trọng nhất, như thứ của cải mang nhiều ý nghĩa, cần thiết và quan trọng trong mọi mặt đời sống của dân Mường.
Được quý nhất là con gà trống, nó như chiếc đồng hồ báo thức, là bạn tri kỉ, nhắc báo giờ giấc. Từ xưa, người Mường tôi chẳng mấy nhà có đồng hồ, hoặc nếu hiếm hoi nhà nào đó có được cũng chỉ xem giờ ban ngày, hoặc có khi còn chẳng quen ngó tới. Ban ngày họ đoán giờ bằng Mặt Trời, bằng cơn đói réo rỉ trong bụng. Ban đêm đoán giờ bằng cơn buồn ngủ của trẻ con. Từ quá nửa khuya trở qua ngày mới, tiếng gà gáy là chiếc đồng hồ căn chuẩn, đều đặn và thân quen trong tiềm thức người Mường bao đời.
Tiếng gà lúc quá nửa đêm, báo sang ngày mới được gọi là gáy gáy một. Tiếng gáy lúc này để nhắc gọi những đôi trai gái, còn mải mê hò hẹn, bịn rịn đâu đó cuối dốc, đầu bản, hãy chia tay nhau về ngủ nghỉ, để ngày mai còn lên nương. Cũng nhắc giục những người đàn bà lụi cụi, cần mẫn bên khung cửi hãy bỏ việc ngơi tay, sau ngày dài nhọc nhoài nương núi. Và nhắc báo giờ về cho những người đàn ông, lặn lội xách đèn, đốt đóm đi man, soi bắt con cua, con dế, con ếch ngoài ruộng xa, suối sâu...
Rồi khi ngày mới chơm chớm rạng phía đầu núi, tiếng gà xôn xao, rộn rã, đó là tiếng gà gáy sáng. Thức gọi trời đất, nương núi bừng tỉnh. Giục mẹ dậy nhóm lửa, giục chị dậy ra bến vác nước mó ngọt lành đầu sương, giục cha,anh dắt trâu sớm buổi cày. Tôi còn nhớ hồi bé. Chừng lúc sang canh một, chúng tôi thường tỉnh giấc lây vào lúc bọn gà gọi sáng. Nằm im lìm trong chăn vẫn nghe tiếng mẹ đi rất nhẹ trên sàn, xuống thang ôm củi lên bếp, phù phù thổi lửa nhóm khói. Tiếng xoong nồi xổn xoảng, biết mẹ đang bắc vội nồi cơm độn hoặc đồ lại bát cơm nguội kịp cho chúng tôi có cái ăn tạm đến trường. Lúc sương bắt đầu rỉ rỏ tan những giọt đầu tiên trên đất, chúng tôi bắt đầu ôm sách vở đi học, cha và mẹ cũng lại theo nhau vội vã ngược phía nương đồi. Lúc này, vài con gà vẫn lác tiếng gọi, như thể sợ còn đâu đó có người quên giấc muộn ngày.
Người Mường coi con gà trống như bạn, như của cải quý hơn cả chiếc đồng hồ đắt tiền treo trong nhà người giàu dưới xuôi. Nó còn là thằng đầy tớ, ân nghĩa trung thành. Bất kể mùa lạnh giá hay ấm áp, đêm mưa bão hay thanh bình, kể cả mùa đói dài, thân rộc gầy, diều lép, vẫn giữ đầy tiếng, tròn hơi, đều đều một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, gáy gọi không quên một ngày, không trễ một canh.
Ở Mường, gà còn là thứ để người ta thể hiện sự hiếu khách, yêu quý con cháu, họ hàng. Nhà tôi có một người cô thứ năm đi lấy chồng xa, lâu lâu về thăm nhà. To nhỏ gì bữa cơm mẹ và bà cũng thịt một con gà. Con gái Mường đi làm dâu nhà người, thường nhịn thèm đủ thứ. Cơm chỉ dám ăn lưng vơi bụng, thức ăn dù có bày đầy mâm cũng chỉ dám chạm đũa lần, còn lại quanh năm, suốt tháng ăn cơm cơm độn chấm muối, húp canh rau. Thế nên mỗi lần con về thăm, nhà có thứ gì quý nhất sẽ nấu dọn cho con ăn. Mà ở nhà Mường, không thứ gì quý hơn miếng thịt gà. Bởi vậy, người ta có thể thiếu lúa trên gác, thiếu áo đẹp trên sào, nhịn miệng thèm ăn, nhưng không mấy khi để thiếu con gà trong bữa cơm cho khách và đón con gái ở nhà chồng về. Những việc nhỏ nhoi, việc tình cảm riêng giữa con người với con người thôi đã vậy. Việc đại sự, to tát lại càng không thể thiếu gà. Không có con gà, ông mơ không thể dẫn mối cho trai gái thành vợ chồng, ông thầy không thể dẫn vía gia chủ về nhà mới. thầy mo không thể dẫn vía người chết về đất mường trời, không bảo được vía người sống “ăn lắng ở lành”. Không thể dặn vía vợ chồng mới cưới ăn đời ở kiếp với nhau, không dỗ dành được vía trẻ con ngoan ngoãn, hay ăn chóng lớn, mạnh khỏe, an bình. Tất cả các đám lễ, công to việc nhỏ trong Mường, con gà là yếu tố làm trọng, quyết định sự thành bại của việc.
Cha kể, ngày trước yêu thương và đã đi lại với một người con gái Mường Rặc. Vì nhà nghèo, đông con, năm đầu tiên đi tết nhà mộng mới, lại vào năm đói kém, dịch hạn. Gà lễ chỉ đôi con lỡ lỡ, vừa kịp đủ lông. Nhà người ta con gái một, lại cũng khá giả, thế nên nhìn lễ mà cho rằng, bên nhà ông bà nội tôi không xem trọng con gái họ, không quý thông gia. Phật ý thế nào, rồi cấm đoán cha và người ấy đi lại. Chẳng bao lâu sau, cô ấy được gả cho người Mường xa. Cha tôi buồn sầu nhiều năm, cho đến khi gặp mẹ mới tìm lại được hạnh phúc. Nghe cha kể tôi thương thương, nhưng lại thấy may mắn, vì nếu chẳng thế, nếu người ta đã chẳng quá xem trọng lễ lạt, sang quý, thấp hèn ở con gà, mâm cỗ, chắc gì tôi đã có mặt trên đời này. Tôi hay nói vui với cha như vậy. Nhưng thực ra con gà ở Mường hệ trọng quá. Nó làm nên đôi nên lứa, nhưng cũng đôi khi làm lỡ làng, ngang trái duyên lành của ai đó.
Với trẻ con ở Mường, con gà càng là thứ quan trọng. Trẻ con sinh ra có mạnh khỏe, có lớn khôn được hay không thì phải nhờ vào cái vía khỏe, vía lành. Mà vía muốn khỏe, muốn lành ngoan thì phải làm lễ đám cho vía. Lễ vía cho trẻ con không cần gì to tát, cầu kì, nhưng nhất thiết phải có đôi gà thịt. Khó khăn hơn làm lễ vía đặt tên, phải có nhiều gà hơn, lại thêm con lợn và vài thứ nữa. Lo được một cái đám vía cũng là cả một vấn đề. Bởi thế, có đứa lên năm lên ba mới có tên để gọi, chỉ vì nhà mộng ngoại không kịp lo đủ lợn to, gà bầy mà đi làm vía tên cho cháu.
Việc đám xá, cỗ lễ ở Mường dẫu có thịt chín trâu, mười bò cũng sẽ chẳng có nghĩa lí gì nếu thiếu thịt gà. Nhà nào đó sẽ oai oách, rạng mày, nở mặt với thiên hạ lắm, khi đám cỗ nhà mình có những đĩa thịt gà to đầy. Cứ như thể, nhờ có con gà, mà người ta cũng thể hiện được sự phú quý giàu sang, khoe được công sức, sự chăm chỉ, tằn tiện, giỏi giang của mình. Người già, cao niên, lão làng ngồi vào mâm được xem cái chân gà, gắp cái mề, cái phao câu gà là như nhận phần hiếu nghĩa con cháu dành dâng. Có khi ngồi hết bữa chẳng gặm nổi miếng nào, vẫn thấy vui vẻ, phấn khởi, no lòng, chừng thọ thêm được cả trăm năm nữa. Trẻ con ngồi mâm đầy xôi đầy thịt, cũng sẽ chẳng chịu yên, nếu không cầm được cái đùi gà, hay cắn chung với bạn một miếng. Người lớn chặt thịt gà, dè xẻn sắp đĩa ra sao, cũng không được chặt nhỏ cái đùi gà, nếu không, tủi vía, trẻ con khóc suốt những bữa cơm.
Như bao dân tộc khác, người Mường có tục đi tết nhà ngoại và đi tết tạ ơn thầy lang. Lễ lạt đem theo có thể ít thứ, nhiều thứ tuỳ vào hoàn cảnh từng gia đình. Nhưng gà là thứ bắt buộc phải có, để con gái đem về thể hiện lòng hiếu lễ với cha mẹ tổ tiên bên ngoại, con rể qua đó thể hiện lòng biết ơn đấng sinh thành, đã sinh cho mình một người vợ ngoan đảm. Con gà trong nắm xôi lễ tết thầy lang cũng cần thiết, để thể hiện lòng thành với ma nôổ nhà mo, để lần sau có đau ốm, hoạn nạn mới được phù hộ, giúp đỡ lấy thuốc thang, tơm khấn khấn cho lành.
Trong hội làng, lễ xuân, đá gà là một thú chơi tiêu nhã, được dân Mường yêu thích bao đời. Sân hội , bãi làng rộn rã cồng chiêng, dập dìu múa pồn pông hát xường , ném còn và bao trò khác. Nhưng nếu thiếu tiếng hò reo, náo nhiệt, ở những góc sân của vài đội đá gà thì sân hội cũng kém vui. Đặc biệt lũ trai choai choai chưa biết để ý bạn tình, và những người đàn ông có vợ, thì chọi gà là thú chơi yêu thích nhất, cuốn hút làm rộn rã sân làng. Câu chuyện về những cuộc chiến, về những chú gà huyền thoại cứ theo họ trên nẻo đường về, thậm chí cứ lôm xôm mãi ở mâm rượu.
Còn cả trăm lí do nữa, ví như nhờ có con gà liếp nhiếp, đổi sách thơm bút đẹp mà lũ trẻ làng có được nhúm chữ thành người. Cũng chẳng ít nhà nuôi được con thành danh mà không ít công lao phải nhờ cậy đến con gà. Ở đâu đó con gà chỉ làm nên những món ẩm thực ngon. Còn ở Mường tôi, con gà là bạn, là tri kỉ, là của cải quý giá, làm nên cuộc sống đẹp đẽ bao đời.