Nhìn từ góc độ pháp lý, quá trình thực hiện cam kết trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động điều chỉnh và thực thi pháp luật của mỗi nước, trong đó có Việt Nam, nhất là về thương mại và đầu tư. Do đó, việc nhận thức được các ảnh hưởng này sẽ đóng vai trò quyết định, giúp cộng đồng doanh nghiệp, các nhà cung cấp và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong nước tranh thủ tối đa những lợi ích từ quá trình tham gia vào cộng đồng này.
Chuyên gia các nước tham gia thảo luận sôi nổi tại Hội thảo khoa học.
(Ảnh: Hồng Phúc).
Đó là ý kiến của các luật gia, luật sư, chuyên gia, nhà nghiên cứu luật trong nước và quốc tế tại Hội thảo Khoa học: "Các thể chế pháp lý của Cộng đồng kinh tế ASEAN: Tác động đối với pháp luật thương mại, đầu tư Việt Nam" do Đại học Luật TP HCM tổ chức vào ngày 9/12.
Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, PGS.TS Bùi Xuân Hải – Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Luật TP HCM nhìn nhận, việc AEC đã bước sang tuổi thứ 2 là một tin vui đối với các quốc gia Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Nhắc đến AEC là nhắc đến những hiệp định quan trọng như ATIGA, AFAS, ACIA và hàng loạt công cụ pháp lý khác. Các công cụ pháp lý đó góp phần điều chỉnh toàn diện thương mại hàng hoá và dịch vụ, cũng như bảo đảm môi trường đầu tư trong ASEAN. Đó là chưa kể, nhắc đến AEC là nhắc đến thị trường chung rộng lớn gồm 622 triệu dân, với nền kinh tế gộp lại đứng thứ 6 trên thế giới và thứ 3 châu Á. Sự lớn mạnh của thị trường này đem lại những cơ hội thương mại và đầu tư đáng kể, trước hết cho cộng đồng doanh nghiệp của các quốc gia trong khu vực.
Tuy nhiên, đi kèm với những cơ hội mới thì PGS.TS Bùi Xuân Hải cũng chỉ ra những vấn đề mà các nước thành viên AEC, trong đó có Việt Nam đang đặc biệt quan tâm. Đó là trong lĩnh vực đầu tư, pháp luật và chính sách đầu tư tại ASEAN phát triển thế nào? Đâu là những cơ hội cho chính sách cải cách của Việt Nam? Đâu là những điểm chồng chéo giữa Hiệp định Đầu tư toàn diện của ASEAN và các cam kết bảo hộ đầu tư của Việt Nam, và hướng giải quyết là gì? Trong lĩnh vực cạnh tranh, việc xác định thị trường liên quan trong pháp luật Việt Nam có tương thích với quy định của AEC hay không? Luật cạnh tranh của ASEAN có nên thúc đẩy các mục tiêu xã hội?
Đưa ra quan điểm của mình về một trong những vấn đề nêu trên, TS Nguyễn Thanh Tú – Vụ trưởng Vụ pháp Luật Dân sự - Kinh tế (Bộ Tư pháp) cho rằng, cần thiết phải xây dựng một cơ chế hài hòa hóa pháp luật trong ASEAN và tác động đối với pháp luật thương mại, đầu tư Việt Nam. Tuy nhiên, ông Tú cũng phân tích những trở ngại đối với việc thực thi tiến trình này tại Việt Nam. Những trở ngại này đến từ cả nguyên nhân bên ngoài như sự thiếu vắng các thiết chế hữu hiệu để giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN và đến từ khó khăn bên trong như bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến hài hòa hóa pháp luật hay năng lực còn chưa cao của các cán bộ, chuyên gia nghiên cứu, xây dựng cũng như thực thi pháp luật.
TS Tú lấy dẫn chứng để hài hòa pháp luật về mua bán hàng hóa quốc tế thì Việt Nam đã gia nhập Cộng đồng Vienna năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) và công ước này có hiệu lực đối với Việt Nam từ đầu năm 2017. Tuy nhiên, khuyến nghị của nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này vẫn chưa tương thích với Luật mẫu UNCITRAL.
Và, mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 của Việt Nam đã có nhiều sửa đổi nhưng việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài vẫn còn nhiều trở ngại, bất cập.
TS Trần Thăng Long, giảng viên Khoa Luật Quốc tế - ĐH Luật TP HCM đưa ra phân tích đánh giá những trở lực của thể chế và cơ chế vận hành hiện tại của AEC đến việc vận hành và phát triển của Cộng đồng trong tương lai. Ông đưa ra nhận định về bản chất AEC là một cấp độ liên kết kinh tế dựa trên cơ sở của những cam kết kinh tế - thương mại hơn là một thể chế kinh tế - chính trị hoàn chỉnh và là trụ cột có khả năng thực thi hiệu quả và toàn diện nhất trong ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN.
Đồng thời TS Long cũng cho rằng, AEC có sự tham khảo đến mô hình Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) trước đây tuy nhiên có những khác biệt, do đó AEC buộc phải có những định hướng và điều chỉnh thích hợp với đặc thù của mình để đạt đến những mục tiêu đã hoạch định.
Theo PGS.TS Trần Việt Dũng, do những vấn đề pháp lý còn phức tạp mà Việt Nam và các nước ASEAN phải đối mặt liên quan đến sự chồng chéo của các cơ chế bảo hộ đầu tư được quy định trong 26 Hiệp định đầu tư song phương (BIT) giữa các nước ASEAN và Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA). Từ đó, TS Dũng nhận định, mặc dù điều khoản ASEAN-BIT sẽ đem lại nhiều ưu đãi hơn cho các nhà đầu tư ASEAN, nhưng chính phủ Việt Nam vẫn có quyền giải thích vận dụng quy định của ACIA. Quyền quyết định cuối cùng về luật áp dụng sẽ thuộc cơ quan tài phán.
TS Stefano Pelligrino dẫn chứng về các vấn đề của EU và Brexit để khuyên các thành viên AEC nên đoàn kết và xây dựng một khung pháp lý chung chặt chẽ. (Ảnh: Hồng Phúc).
TS Stefano Pelligrino (công ty Frasers Law Company, EUROCHAM) chia sẻ về sự khác biệt và tương đồng trong cách tiếp cận của EU, và bài học từ trường hợp Brexit. Từ đó, chuyên gia này cho rằng, Cộng đồng kinh tế ASEAN cần đặc biệt chú ý, nhất là về các thể chế pháp lý chặt chẽ trong việc thống nhất thị trường, xây dựng cơ quan quyền lực chung và quyền tự do di chuyển của cư dân. Bên cạnh đó, TS Stefano Pelligrino lấy dẫn chứng thông qua bài học Brexit, để chỉ ra những thách thức và kinh nghiệm mà AEC cần lưu ý để quá trình hội nhập khu vực diễn ra suôn sẻ hơn.
TS Pornchai Wisuttisak (Khoa Luật, Đại học Chiangmai -Thái Lan) chỉ ra sự khác biệt và tương tự giữa pháp luật hỗ trợ và bảo vệ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và Thái Lan, cũng như đưa ra những khuyến nghị nhằm bảo vệ sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với những doanh nghiệp lớn tại hai quốc gia này trong bối cảnh hội nhập khu vực.
Luật sư Rafael Tay (Công ty luật Chooi & Co, Malaysia) nhấn mạnh đến dòng chảy đầu tư tự do đem đến cơ hội cho Việt Nam nói riêng và các thành viên AEC nói chung, nhưng cũng cần có sự chủ động cải cách các quy định pháp luật và chính sách mỗi nước nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt về khả năng tiếp cận thị trường của nhà đầu tư nước ngoài, quyền sở hữu đất đai, thành lập doanh nghiệp và giải quyết tranh chấp, vốn là những vấn đề mang tầm quan trọng đối với Việt Nam cũng như các nước ASEAN trong quá trình hội nhập vào AEC.
Trong khi đó, TS Nasarudin Abdul Rahman (Khoa luật, ĐH Hồi giáo Quốc tế, Malaysia) nhận thấy, các quốc gia thành viên ASEAN đặt ra nhiều mục tiêu trong luật cạnh tranh của nước mình để phù hợp với điều kiện thực tế, nhưng từ đó lại tự làm khó mình trong việc chọn lựa giữa mục tiêu thúc đẩy hiệu quả kinh tế và mục tiêu xã hội. Chuyên gia này khuyến khích luật cạnh tranh của các nước thành viên ASEAN nên nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế để tạo sự minh bạch và đảm bảo nguyên tắc cân bằng hợp lý, còn các mục tiêu xã hội nên được thể hiện thông qua những chính sách khác.