Đàn bò sữa sụt giảm mạnh: An ninh dinh dưỡng đối mặt thách thức
Nếu như những năm 2010-2015 đàn bò sữa tăng tới 15%/năm, nhiều địa phương trở thành “thủ phủ bò sữa”, mang lại sự thịnh vượng cho nông dân thì đến giai đoạn 2020-2024, bức tranh chăn nuôi bò sữa đã có nhiều gam trầm, đặc biệt tại TPHCM đàn bò sụt giảm hơn 50%. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến mục tiêu phát triển ngành công nghiệp sữa thời gian tới.
Đó là nhận định được đưa ra tại buổi tọa đàm “Thực trạng và giải pháp khôi phục sự phát triển đàn bò sữa” do Hội Chăn nuôi Việt Nam phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 23/9 tại Hà Nội.
Đánh giá về bức tranh chăn nuôi bò sữa hiện nay, TS Nguyễn Xuân Dương – Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho biết, đàn bò sữa từng tăng trưởng 15,4%/năm giai đoạn 2010-2015, nhưng từ đó đến nay đã sụt giảm nhanh chóng.
Sản lượng sữa tươi nguyên liệu cũng giảm từ 17,7%/năm (2010-2015) xuống 3,4%/năm (2020-2024). Ngược lại, năng suất sữa mỗi con bò tăng lên đáng kể, hiện đạt 7 tấn/chu kỳ – mức cao nhất khu vực. Tuy nhiên, lượng sữa nguyên liệu và thành phẩm nhập khẩu ngày càng tăng mạnh, cùng sự phát triển nóng của các sản phẩm sữa kém chất lượng đã tạo ra áp lực lớn.
Nêu nguyên nhân, ông Dương cho rằng, do lượng sữa nguyên liệu và thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng cao. Sữa và các sản phẩm từ sữa phát triển quá nóng gây nhiễu loạn thị trường. Sản phẩm sữa kém chất lượng tràn lan, gây sức ép không nhỏ với các dòng sản phẩm chất lượng. Trong khi đó, việc thu mua sữa tươi nguyên liệu không được các doanh nghiệp (DN) “mặn mà” càng thêm khó khăn cho người chăn nuôi.
Còn theo ông Lê Việt Hải – Phó Chi cục Chăn nuôi và Thú y TPHCM, chăn nuôi bò sữa là ngành đòi hỏi vốn lớn, tính chuyên nghiệp cao, trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, đất trồng cỏ hạn chế, chi phí sản xuất tăng mạnh do nhiều khâu trung gian, nhưng đầu ra lại thiếu ổn định. Tốc độ đô thị hóa nhanh khiến quỹ đất nông nghiệp cho chăn nuôi bị thu hẹp. Giá sữa tươi biến động ít, thậm chí giảm, trong khi giá thức ăn tăng cao, khiến nhiều hộ nông dân không có lãi và buộc phải bỏ đàn.
Còn theo Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi), khó khăn trong phát triển đàn bò sữa xuất phát từ nhiều yếu tố. Đơn cử, nhiều hộ chưa tiếp cận được tinh bò sữa cao sản, chất lượng đàn giảm qua các thế hệ; diện tích đất trồng cỏ hạn chế; thiếu vốn và tín dụng ưu đãi để cải thiện chuồng trại, máy móc vắt sữa, bảo quản, công nghệ và con giống…
Theo Hội Chăn nuôi Việt Nam, nếu có chính sách đúng đắn, đến năm 2030, Việt Nam hoàn toàn có thể nâng quy mô đàn bò sữa lên 1,3 – 1,5 triệu con, sản lượng đạt 4,3 – 5 triệu tấn sữa. Mục tiêu của ngành sữa Việt Nam đặt ra là từ sau năm 2030, Việt Nam có thể tự chủ 60% nguồn nguyên liệu sữa tươi cho ngành công nghiệp chế biến; đến năm 2045, sản lượng sữa/người đạt 100kg/năm. Theo ông Dương, mục tiêu này hoàn toàn khả thi bởi không gian chăn nuôi gia súc cho sữa ở Việt Nam còn rất lớn, chưa được khai thác hết. Trong khi đó, thị trường tiêu thụ sữa trong nước đang tăng trưởng nhanh là động lực cho ngành sữa phát triển… Trong bối cảnh đó, cần xây dựng mối liên kết bền vững giữa nông dân và DN, hướng tới chuỗi sản xuất khép kín. DN cần ký hợp đồng thu mua dài hạn, cam kết về số lượng, chất lượng và giá cả minh bạch, hỗ trợ giống, kỹ thuật và công nghệ bảo quản. Về phía nông dân, cần tham gia hợp tác xã, tổ hợp tác, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến để đảm bảo chất lượng đồng đều.
Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, phân biệt rõ sữa tươi và sữa hoàn nguyên, đồng thời có quy định bắt buộc các cơ sở sản xuất phải gắn với vùng nguyên liệu trong nước hoặc sử dụng tối thiểu một tỷ lệ sữa tươi nội địa nhất định.
“Ngành sữa Việt Nam không chỉ là câu chuyện kinh tế, mà còn gắn liền với an ninh dinh dưỡng quốc gia, với sinh kế hàng triệu nông dân. Để phát triển bền vững, cần sự vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành, DN và người chăn nuôi” - TS Nguyễn Xuân Dương nhấn mạnh.
Nhiều chuyên gia cũng cho rằng, để phát triển bền vững ngành chăn nuôi bò sữa, yếu tố then chốt chính là sự gắn kết giữa DN và nông dân. DN không thể đi một mình, nông dân cũng không thể phát triển đơn lẻ. Chỉ khi cả DN và nông dân cùng đồng hành trong một chuỗi khép kín, ứng dụng công nghệ cao mới có thể tạo ra nguồn sữa tươi nguyên liệu đạt chuẩn quốc tế, giảm phụ thuộc vào sữa bột nhập khẩu, góp phần bảo đảm an ninh dinh dưỡng quốc gia.