Nhiều tập đoàn thiết kế vi mạch trên thế giới đang chuyển hướng hoạt động, tăng cường đầu tư tại Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao về vi mạch trong nước đang cấp thiết hơn bao giờ hết.
Tránh dư thừa nguồn cung
Nhu cầu về nhân lực ngành vi mạch bán dẫn ngày càng lớn, việc mở ngành vi mạch, bán dẫn hoặc tách chương trình thành một chuyên ngành riêng từ các ngành gần như Điện - Điện tử, Điện tử - Viễn thông, Kỹ thuật Máy tính, Vật lý Kỹ thuật... đang trở thành xu hướng của các cơ sở đào tạo trong mùa tuyển sinh năm 2024.
Sự vào cuộc của các trường đã có, song làm thế nào để bảo đảm chất và lượng nguồn nhân lực là bài toán đặt ra. Bởi thực tế, chất lượng kỹ sư sau khi ra trường hiện nay còn hạn chế. TS Hà Thúc Viên - Phó Hiệu trưởng phụ trách Trường Đại học (ĐH) Việt Đức nhận định, để đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường, việc mở rộng và đa dạng hóa chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo là một bước đi quan trọng và cần thiết, phản ánh sự nhạy bén trong việc thích ứng với biến đổi nhanh chóng của thị trường lao động. Sự mở rộng này không chỉ giúp sinh viên (SV) tiếp cận với kiến thức chuyên sâu và cập nhật, mà còn cung cấp kỹ năng thực tiễn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực chất lượng. Tuy nhiên, ông Viên cho rằng, việc mở rộng này đòi hỏi một quá trình lập kế hoạch cẩn thận và chiến lược, nhằm tránh tạo ra sự dư thừa nguồn cung, không phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường.
Có thể thấy rằng, kể từ khi Luật Giáo dục ĐH có hiệu lực, đã trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cơ sở đào tạo, trong đó có quyền tự chủ tuyển sinh, tự chủ mở ngành, nội dung chương trình đào tạo. Thực hiện quyền tự chủ, các trường đã rất nhạy bén trong việc mở các mã ngành, chương trình đào tạo đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của xã hội.
Thế nhưng, TS Nguyễn Việt Nga - Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội chỉ ra rằng, một trong những điểm yếu trong đào tạo nhân lực của Việt Nam nhiều năm qua là đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu thị trường. Nghĩa là, chúng ta mới chỉ đào tạo những gì đang có chứ không đào tạo ra những gì mà thị trường lao động cần. Điểm yếu này dẫn tới tình trạng nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng nhu cầu thị trường. Một bộ phận SV được đào tạo ra trường có bằng cấp nhưng vẫn thất nghiệp, phải làm công việc trái ngành nghề đào tạo. Trong khi đó, có những ngành cần nhân lực nhưng chúng ta lại chưa đào tạo kịp.
Không đốt cháy giai đoạn
TS Nguyễn Việt Nga đánh giá cao việc nhiều trường ĐH mở ngành, chuyên ngành đào tạo vi mạch, bán dẫn - ngành mà thị trường đang cần. Theo bà Nga, uy tín của các trường cũng được đo bằng chất lượng đào tạo và tỷ lệ SV ra trường có việc làm.
Tuy nhiên, để tránh việc mở ngành, chuyên ngành đào tạo vi mạch, bán dẫn trở thành trào lưu, bà Nga cho rằng, các trường cần cân nhắc về việc đảm bảo cơ sở vật chất, điều kiện giảng dạy và đội ngũ giảng viên. “Tôi mong muốn các trường nghiên cứu kỹ thị trường lao động, nhu cầu xã hội và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng thấu đáo. Nếu mở ngành chỉ theo xu thế thì dù có đào tạo hơn nữa, chúng ta vẫn không thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động ngày càng khó tính” - bà Nga nói.
Khuyến khích việc các trường mở ngành bắt kịp xu thế, đáp ứng nhu cầu xã hội, song trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Đại Đoàn Kết, PGS.TS Phạm Đức Chính - giảng viên Trường ĐH Kinh tế - Luật (ĐH Quốc gia TPHCM) đề cập đến việc trồng cây cần khoảng thời gian dài cũng như muốn đào tạo một con người cần cả một quá trình. Sở dĩ so sánh như vậy là bởi theo ông Chính, việc mở ngành phải chuẩn bị tốt các điều kiện như đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất… thì khi đó mới bắt tay vào đào tạo, chứ không thể đốt cháy giai đoạn hay nóng vội trong đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Cũng theo GS.TS Nguyễn Đình Đức, nhà khoa học Việt Nam duy nhất được cộng đồng khoa học thế giới xếp vào danh sách top 100 nhà khoa học có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực Kỹ thuật - Công nghệ, để sản xuất được một con chip từ khâu thiết kế cho đến khi đóng gói để đưa ra thị trường phải mất 4-6 tháng với trên 500 công đoạn, đi qua hơn 55.000km với khoảng 70 quốc gia. Nói như thế để thấy rằng, trong thiết kế vi mạch, một con chip chỉ nhỏ như móng tay, muốn thành công thì cần một hệ sinh thái, một đội ngũ kỹ sư trình độ cao vô cùng lớn. Một số cơ sở đào tạo hàng đầu có chương trình đào tạo, đội ngũ giáo sư, giảng viên tốt, công nghệ tốt và tuyển chọn được những học sinh xuất sắc vào học như: ĐH Bách khoa Hà Nội; Trường ĐH Bách khoa TPHCM; Trường ĐH Công nghệ, Trường ĐH Khoa học tự nhiên (thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội)..., mới có thể đào tạo được đội ngũ kỹ sư có trình độ đáp ứng được yêu cầu của công nghệ cao, chip bán dẫn, số còn lại cũng chưa có kiểm chứng về chất lượng.
Đích đến là người học
Chia sẻ kinh nghiệm từ ĐH Bách khoa Hà Nội, PGS.TS Nguyễn Phong Điền - Phó Giám đốc ĐH này cho hay, nhà trường chú trọng đào tạo thiết kế vi mạch, công nghệ bán dẫn đối với các cử nhân ở các ngành gần như Vật lý kỹ thuật, Điện tử viễn thông, Khoa học máy tính, Cơ điện tử… hay cấp độ cao, tức là sau ĐH trình độ kỹ sư chuyên sâu đặc thù hoặc thạc sĩ, chứ không chú trọng vào việc xây dựng một chương trình đào tạo từ đầu.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo, ông Điền nhấn mạnh 3 yếu tố: SV có năng lực học tập phù hợp; chương trình đào tạo tốt, gồm: nội dung đào tạo, phương pháp kiểm tra đánh giá, trang thiết bị thí nghiệm; đội ngũ giảng viên đủ năng lực và số lượng. Trong đó, đội ngũ giảng viên là yếu tố quan trọng nhất nhưng hiện tại yếu tố này ở một số trường chưa đủ. Ngoài ra, yêu cầu bắt buộc đối với các trường khi mở ngành đào tạo này là cần phải hợp tác với doanh nghiệp (DN). Trong điều kiện DN sản xuất về vi mạch ở Việt Nam còn hiếm thì các trường cần vươn ra hợp tác với các DN nước ngoài đầu tư về Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là việc không phải trường nào cũng làm được.
“Ở ĐH Bách Khoa Hà Nội, nhà trường đã ký biên bản hợp tác với các trường có khả năng và kinh nghiệm đào tạo vi mạch, bán dẫn trong thời gian dài, trong đó có nhiều trường ở các quốc gia như: Đức, Mỹ... Các đơn vị này hỗ trợ cho ĐH Bách khoa Hà Nội xây dựng chương trình đào tạo, thiết kế các phòng thí nghiệm, đào tạo giảng viên cũng như giới thiệu cho các công ty có liên quan tới sản xuất bán dẫn để SV có điều kiện thực tập và cọ sát về nghề nghiệp. Nhà trường thận trọng trong quá trình chuẩn bị để đạt đích đến cuối cùng và quan trọng nhất là sản phẩm đầu ra - người học” - ông Điền nhấn mạnh.
TS Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho rằng, trong điều kiện hiện nay, cơ sở đào tạo nào có cơ hội cũng sẽ tìm cách mở ngành theo xu thế. Nếu các trường mở ngành ồ ạt mà không chuẩn bị đủ về nguồn lực thì sẽ xảy ra tình trạng thiếu đội ngũ giảng viên, không đảm bảo chất lượng đào tạo. Dù theo Luật Giáo dục ĐH, các trường được tự chủ tuyển sinh, mở ngành, chương trình đào tạo, nhưng ông Vinh nêu quan điểm: Với vai trò cơ quan quản lý nhà nước, Bộ GDĐT cần kiểm định chất lượng, sớm quy hoạch mạng lưới, chỉ nên tập trung cho một số cơ sở đào tạo bảo đảm được các tiêu chuẩn chất lượng và khống chế bằng văn bản, tránh tình trạng “ếch vồ hoa”, mở ngành theo mốt thời thượng.
Tại hội thảo “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam” được tổ chức đầu tháng 3 vừa qua (do Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, Quỹ châu Á và Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật - ĐH Đà Nẵng phối hợp tổ chức), ông Đỗ Tiến Thịnh - Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia cho rằng, trong đề án, số lượng kỹ sư 50.000 là mục tiêu, việc đào tạo cần tính toán cung cấp lao động cho nhiều quốc gia, thị trường quốc tế chứ không phải chỉ trong nước.
Các chuyên gia có chung quan điểm, những con số đưa ra vẫn dựa trên căn cứ nhu cầu lao động của các tập đoàn vi mạch lớn nhưng đó là mục tiêu, là kỳ vọng. Thực tế không thể có ngay những DN vi mạch Việt Nam phát triển ngay được mà cần có tư duy đào tạo, đưa nhân lực đi ra nước ngoài làm việc một thời gian. Sau đó, chính nguồn nhân lực này có thể quay về và phát triển doanh nghiệp trong nước, tuyển dụng các thế hệ sau.
Sinh viên cần có trải nghiệm thực tế
Theo TS Hà Thúc Viên - Phó Hiệu trưởng phụ trách Trường ĐH Việt Đức, thách thức lớn trong việc mở ngành, chuyên ngành đào tạo vi mạch, bán dẫn là sự thiếu hụt giảng viên và chuyên gia có chuyên môn cao. Để giải quyết vấn đề này, sự hợp tác với các trường ĐH và trung tâm nghiên cứu bán dẫn quốc tế để chia sẻ chuyên môn và kinh nghiệm là hết sức cần thiết. Qua đó, các trường ĐH tại Việt Nam có thể cung cấp cho sinh viên cơ hội tiếp xúc với kinh nghiệm thực tế, nâng cao chất lượng đào tạo và khả năng ứng dụng của người học.
(còn nữa)