Đề nghị có chính sách hỗ trợ trực tiếp bằng tiền cho hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo
Đại biểu Đỗ Thị Lan (Đoàn Quảng Ninh) cho rằng, cần đánh giá lại kết quả đào tạo nghề nông thôn để có quy định phù hợp, nên gắn với giải quyết việc làm, kết hợp với doanh nghiệp, gắn với phát triển sản xuất, ở địa phương cùng với cơ chế chính sách phù hợp bảo đảm hiệu quả, bền vững.
Ngày 5/12, Quốc hội thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (ĐBDTTS và MN) đến năm 2035.
Thống nhất với nhiều nội dung của Chương trình, liên quan đến tại Điều 2, dự thảo Nghị quyết quy định giao Chính phủ rà soát, sửa đổi, ban hành các quy định cơ chế đặc thù đối với dự án phát triển sản xuất, Đại biểu Đỗ Thị Lan (Đoàn Quảng Ninh) cho rằng, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất rất quan trọng, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 thu nhập bình quân của người dân nông thôn tăng gấp 2,5-3 lần so với năm 2020. Tờ trình của Chính phủ chưa quy định cơ chế đặc thù cụ thể nên việc giao cho Chính phủ sửa đổi các quy định hiện hành về cơ chế đặc thù đối với cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất là cần thiết.
Theo bà Lan, thời gian qua dự án phát triển sản xuất của các chương trình mục tiêu còn nhiều hạn chế, bất cập. Trong đó bao gồm cả hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị; hỗ trợ phát triển sản xuất cộng đồng. Nguyên nhân hạn chế, một phần do quy định về nguyên tắc, tiêu chí, quy trình thủ tục, điều kiện, đối tượng hưởng chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất còn phức tạp, bất cập, yêu cầu cao về quản lý, theo quy định quản lý tài chính, tài sản công.
Bà Lan đưa ra dẫn chứng: Ví dụ như hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị “ đơn vị chủ trì liên kết và đối tượng liên kết phải có hợp đồng, biên bản hợp tác về đào tạo, kỹ thuật, cung ứng vật tư đầu vào và thu hoạch chế biến, tiêu thụ, yêu cầu người nông dân phải liên kết với doanh nghiệp trong phát triển sản xuất, phải lập hồ sơ dự án, thông qua hội đồng thẩm định của Bộ hoặc HĐND tỉnh; quá trình thực hiện phải lập kế hoạch dự toán, hoá đơn chứng từ mua sắm gồm cả giống cây trồng vật nuôi. Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất cộng đồng phải thành lập tổ hợp tác, trình tự thủ tục hồ sơ, thẩm định của HĐND cấp tỉnh; tổ chức quản lý tài sản hình thành sau hỗ trợ, mức quay vòng vốn hỗ trợ.
“Quy định hiện hành như trên có điểm chưa phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là tại các địa bàn miền núi, dân tộc thiểu số điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, dẫn đến các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất tỷ lệ giải ngân thấp, ảnh hưởng đến
Từ đó bà Lan đề nghị, có cơ chế đặc thù phù hợp hơn đối với dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, cần đơn giản hoá thủ tục hành chính, giảm điều kiện, quy trình thủ tục. Chính phủ quy định nguyên tắc, tiêu chí, khung mức hỗ trợ, phân cấp thẩm quyền cho cấp tỉnh, cấp xã quyết định hồ sơ phê duyệt, nghiệm thu, hỗ trợ phát triển sản xuất phù hợp với đặc điểm vùng miền, tình hình phát triển sản xuất của địa phương. Trong đó, đề nghị có chính sách hỗ trợ trực tiếp bằng tiền cho hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo qua hình thức đăng ký nhiệm vụ phát triển sản xuất rừng phù hợp. Ví dụ trồng rừng, thời gian sản xuất 2 đến 3 năm, sản xuất theo hộ gia đình được hỗ trợ bằng tiền qua hình thức đăng ký và nghiệm thu thanh toán, phù hợp với vùng miền núi, dân tộc thiểu số.
Liên quan đến việc dự thảo Nghị quyết quy định lồng ghép các nguồn lực giữa các Chương trình mục tiêu quốc gia trên cùng địa bàn. Trong cơ cấu vốn chương trình có 360.000 tỷ vốn lồng ghép từ các CTMTQG, bà Lan thông tin qua thảo luận tại Tổ, một số đại biểu đề nghị không quy định việc lồng ghép vốn trong chương trình. Do đó, cần quy định cơ chế lồng ghép vốn trong chương trình mục tiêu, nhất là trong điều kiện nguồn vốn ngân sách bố trí cho chương trình còn hạn chế. Trên thực tế địa phương đã thực hiện lồng ghép vốn đầu tư công từ ngân sách địa phương, lồng ghép vốn xã hội hoá cho các dự án đầu tư của CTMTQG. Bên cạnh đó, một số địa phương chưa thực hiện lồng ghép vốn do không có nguồn lực khác lồng ghép thực hiện Chương trình; quy định hiện hành về lồng ghép vốn giữa các CTMTQG còn nặng về nguyên tắc quản lý, phạm vi vốn được lồng ghép, phương thức lồng ghép còn chưa phù hợp, vướng mắc trong tổ chức thực hiện, hiệu quả không cao.
Sau những phân tích, bà Lan đề nghị bổ sung vào dự thảo Nghị quyết quy định lồng ghép vốn ngân sách địa phương, các nguồn vốn hợp pháp khác, vốn đầu tư từ các chương trình dự án khác để thực hiện Chương trình và quy định linh hoạt phù hợp về phương thức lồng ghép để thực hiện hiệu quả.
“Về mục tiêu cụ thể thứ 6 của Chương trình có nêu, ưu tiên giải quyết một số vấn đề bức thiết quan trọng, trong đó quy hoạch sắp xếp, bố trí ổn định dân cư ở những nơi cần thiết cần có 1 dự án hoặc tiểu dự án và bố trí vốn phù hợp để thực hiện mục tiêu này. Đây cũng là mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng dân số. Vì thời gian qua bão lũ, sạt lở đất đã ảnh hưởng đến nhiều khu dân cư, có nơi không còn bảo đảm sự an toàn, ổn cuộc sống người dân. Do đó tôi đề nghị có giải pháp, nguồn lực trong Chương trình”, bà Lan nói.
Về đào tạo nghề lao động nông thôn, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề trong Chương trình, bà Lan nêu rõ giải quyết việc làm tăng thu nhập là quan trọng nhất. Do đó, cần đánh giá lại kết quả đào tạo nghề nông thôn để có quy định phù hợp, nên gắn với giải quyết việc làm, kết hợp với doanh nghiệp, gắn với phát triển sản xuất, ở địa phương cùng với cơ chế chính sách phù hợp bảo đảm hiệu quả, bền vững.