Để những nghiên cứu khoa học ứng dụng vào thực tiễn - Bài cuối: Cần cầu nối giữa nhà trường và doanh nghiệp
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan tỏa mạnh mẽ, khoa học – công nghệ (KHCN) trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, làm thế nào để các nghiên cứu khoa học (NCKH) thực sự đi vào đời sống, có tính ứng dụng cao, đang là câu hỏi lớn đặt ra cho cả giới nghiên cứu lẫn các nhà quản lý giáo dục.
Hợp tác chưa chặt chẽ
Theo báo cáo của Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN), số lượng đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích tại Việt Nam của các chủ thể Việt Nam năm 2023 là 991, trong khi của các chủ thể nước ngoài là 8.469 đơn. Các chủ thể Việt Nam chủ yếu là đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu; số lượng sáng chế chỉ bằng 1/7 so với chủ thể nước ngoài.
Điều đó cho thấy, hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mặc dù khá sôi động (thông qua việc đăng ký bảo hộ kiểu dáng và nhãn hiệu) nhưng chúng ta chưa có nhiều sản phẩm chứa hàm lượng trí tuệ cao, hoạt động nghiên cứu ứng dụng và nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng tạo ra công nghệ, đổi mới sáng tạo vẫn còn hạn chế.

Báo cáo cũng chỉ ra số lượng đối tượng sở hữu trí tuệ chuyển giao (trong đó có sáng chế) quyền sử dụng và quyền sở hữu tài sản trí tuệ chiếm tỷ lệ khiêm tốn so với đơn được nộp và các văn bằng bảo hộ được cấp. Điều này chứng tỏ hoạt động quản lý, khai thác tài sản trí tuệ nói chung và sáng chế nói riêng chưa thực sự hiệu quả.
Nguyên nhân, theo Cục Sở hữu trí tuệ, do năng lực hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Nhiều kết quả nghiên cứu được tạo ra chưa gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, việc hợp tác giữa viện nghiên cứu, trường đại học (ĐH) và doanh nghiệp chưa được chặt chẽ; liên kết theo chuỗi giá trị giữa các tác nhân nghiên cứu, sản xuất và kinh doanh còn yếu.
Tại các trường ĐH, ghi nhận thực tế số giảng viên tham gia NCKH trong tổng số hơn 85.000 cán bộ giảng dạy ở các trường ĐH, CĐ trên toàn quốc còn hạn chế. Minh chứng là chỉ có 33/240 cơ sở giáo dục ĐH của Việt Nam có số bài báo đạt chuẩn WoS hoặc Scopus đáp ứng được yêu cầu chuẩn cơ sở giáo dục ĐH đối với tỷ lệ bài báo khoa học trong nửa đầu năm 2024.
TS Thái Doãn Thanh - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Công thương TPHCM cũng chỉ ra thực trạng hiện nay sự kết nối của doanh nghiệp đặt hàng với các cơ sở giáo dục ĐH còn hạn chế, chưa thực sự chặt chẽ. Trong đó, nhà trường mong muốn có các doanh nghiệp đặt hàng hoặc kết nối nhưng phần lớn doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên không có kinh phí để đặt hàng. Một số doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động KHCN nhưng không giải ngân được do cơ chế. Điều này dẫn đến việc các cơ sở giáo dục ĐH dù có nghiên cứu nhưng để hiện thực hóa, tạo ra sản phẩm rất hạn chế, càng không mang đi bán được.
“Hoạt động NCKH nếu chỉ trông chờ kinh phí từ Nhà nước sẽ rất khó khăn, cần gia tăng sự kết nối giữa doanh nghiệp và các trường ĐH để thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu. Có như vậy hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ mới hiệu quả, đem lại nguồn thu cho nhà trường” - TS Thái Doãn Thanh chia sẻ.
Dù các đề tài NCKH trong trường ĐH nói riêng và NCKH nói chung của Việt Nam ngày càng được nâng lên cả về số lượng và chất lượng nhưng nhìn chung vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu của thực tiễn ứng dụng trong đời sống và sản xuất. Vì vậy, để thương mại hóa các NCKH thành công, NCKH cần xuất phát từ thực tiễn và giải quyết các bài toán thực tiễn.
PGS.TS Quản Thành Thơ - Trưởng khoa Khoa Khoa học và Kỹ thuật máy tính, Trường ĐH Bách khoa, ĐH Quốc gia TPHCM nhìn nhận không chỉ xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, NCKH cần có sự tham gia ngay từ đầu của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, nhằm đảm bảo tính ứng dụng và khả năng chuyển giao. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong trường, kết nối chặt chẽ giữa các hoạt động nghiên cứu, khởi nghiệp và chuyển đổi số. Đồng thời, phải tháo gỡ các rào cản về thể chế và tài chính, đồng thời trao quyền tự chủ nhiều hơn để các trường chủ động trong quản lý và triển khai nghiên cứu.
Doanh nghiệp spin-off: Hướng đi cần thiết
Doanh nghiệp spin-off là mô hình doanh nghiệp “khởi nguồn”, thường xuất phát từ các trường ĐH, viện nghiên cứu dựa trên việc sản xuất và kinh doanh các sản phẩm được hình thành từ các kết quả NCKH và phát triển công nghệ của trường ĐH đó. Đây được coi là một trong hướng đi hiệu quả nhằm thương mại hóa các tài sản trí tuệ, công nghệ, hoặc kết quả nghiên cứu có sẵn. Bởi các nhà khoa học, đặc biệt khối ngành kỹ thuật đa phần không có chuyên môn về kinh doanh để có thể đảm đương quá nhiều đầu việc như tài chính, gọi vốn, bán hàng…
Thấu hiểu những khó khăn này, tại ĐH Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Chuyển giao Tri thức và hỗ trợ Khởi nghiệp (CSK) ra đời nhằm tìm kiếm, hỗ trợ các đề tài nghiên cứu trọng điểm, đầu tư vun cao các dự án có thể đưa vào ứng dụng, kết nối các doanh nghiệp với nhà khoa học nhằm hiện thực hóa những nghiên cứu tri thức ra thị trường. Nhiều doanh nghiệp spin-off đã ra đời nhờ CSK, trong đó có những công ty được hỗ trợ phát triển từ giai đoạn ý tưởng đến khi hình thành mô hình kinh doanh.

Đây cũng là hướng đi của Trường ĐH Phenikaa (Hà Nội) nhằm thương mại hóa các kết quả nghiên cứu trong nhà trường. Hai Công ty Phenikaa Smart School, Công ty Chuyển đổi số rong giai đoạn 2022-2024 đã ký kết 63 hợp đồng cung cấp giải pháp cho các cơ quan, tổ chức, trường học.
ĐH Bách khoa Hà Nội là đơn vị đầu tiên trong hệ thống công lập thành lập Viện nghiên cứu ứng dụng về trí tuệ nhân tạo, sở hữu doanh nghiệp spin-off hoạt động hiệu quả. Các sản phẩm công nghệ “made in Bách khoa” phủ hầu hết các lĩnh vực công nghệ chiến lược, trong đó có nhiều công nghệ lưỡng dụng có khả năng phục vụ hiệu quả trong an ninh quốc phòng ở lĩnh vực điển tử viễn thông, biển đảo, năng lượng, công nghệ thông tin, AI, kỹ thuật vật lý, hóa học, cơ khí động lực và hàng không. Hiện nhà trường đang phải đối mặt với một số tồn tại như số lượng hợp đồng chuyển giao công nghệ và doanh thu từ thương mại hóa công nghệ còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế sở hữu trí tuệ chưa rõ ràng, thiếu cơ chế tài chính linh hoạt và lực lượng trung gian chuyển giao còn yếu.
Để phát triển công nghệ, PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng – Giám đốc ĐH Bách khoa Hà Nội đề xuất có cơ chế đặt hàng, các tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp chủ động phối hợp, tổ chức lực lượng triển khai. Lãnh đạo ĐH Bách khoa Hà Nội cũng đề xuất xây dựng Trung tâm nghiên cứu sáng tạo công nghệ lõi sâu phù hợp với chiến lược quốc gia trong các lĩnh vực thế mạnh của ĐHBK Hà Nội, gồm: Trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, chuỗi khối, điện tử, bán dẫn và chip, công nghệ số, robot và tự động hoá, năng lượng, môi trường, công nghệ sinh học, vật liệu tiên tiến - theo mô hình tiên tiến trên thế giới.
Để những công trình khoa học thực sự trở thành “đòn bẩy phát triển”, cần một chiến lược đồng bộ và lâu dài. Trong đó, bên cạnh việc đổi mới trong cách tiếp cận nghiên cứu, tăng cường liên kết ba nhà, đầu tư nhiều hơn cho giai đoạn chuyển giao công nghệ, cần xây dựng văn hóa đổi mới sáng tạo trong nhà trường. Một môi trường khuyến khích thử nghiệm, dám nghĩ dám làm, dám sai sẽ giúp nhà khoa học, đặc biệt là người trẻ mạnh dạn hơn trong nghiên cứu.
PGS. TS Nguyễn Việt Dũng, Phó Hiệu trưởng Trường Cơ khí, ĐH Bách khoa đề xuất phải thay đổi tư duy, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu. Nếu chỉ chọn hướng đi an toàn, thực hiện những gì đã có kết quả và chỉ phát triển thêm đồng nghĩa không thể có những đột phá hay đổi mới sáng tạo.
Tin vui với các nhà khoa học đó là tại khoản 3 Điều 9 Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15 ngày 27/6/2025 đã có quy định cụ thể các trường hợp chấp nhận rủi ro trong NCKH, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo sử dụng từ nguồn ngân sách nhà nước. Điều này được hy vọng sẽ “cởi trói” cho các nhà khoa học trong việc tự do sáng tạo, những ý tưởng mới mẻ, độc đáo sẽ có cơ hội nảy nở.
