Để tài sản số không “sốt ảo”
Việt Nam đang bước vào thời kỳ "bản lề" hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045. Để đạt được mục tiêu này, giới chuyên gia cần tìm kiếm những thị trường mới, kênh huy động vốn mới; trong đó tài sản số có thể trở thành một cấu phần quan trọng của kinh tế số. Tài sản số dần trở thành cấu trúc cốt lõi của nền kinh tế số toàn cầu.
Cuộc dịch chuyển tất yếu
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 05/2025/NQ-CP về thí điểm thị trường tài sản mã hóa. Ông Nguyễn Đức Thuận - Chủ tịch Hội các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam (VACD), kỳ vọng từ ngày 1/1/2026, khi tài sản số chính thức bước ra khỏi "vùng xám", Việt Nam sẽ có thêm kênh dẫn vốn minh bạch, chính thống, góp phần khơi thông nguồn lực cho doanh nghiệp. Điều quan trọng trong giai đoạn chuyển tiếp là tìm ra cách khai thác tối đa giá trị của lĩnh vực này, cả về mặt công nghệ lẫn chính sách.
Ông Thuận cũng cho biết, tư duy của doanh nghiệp về tài sản số đã trưởng thành vượt bậc. Không còn mơ hồ, cộng đồng kinh doanh đã xác định rất rõ đích đến của công nghệ này.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp tin rằng tài chính - kế toán sẽ là lĩnh vực được ứng dụng hiệu quả nhất, theo sát là lĩnh vực quản lý tài sản và quyền sở hữu. Điều này cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam không xem tài sản số như một sản phẩm đầu cơ, mà coi đó là công cụ để minh bạch hóa dòng tiền và số hóa quyền sở hữu tài sản thực.
Từ kinh nghiệm hơn 20 năm làm việc trong lĩnh vực tài chính, ông Nguyễn Phú Dũng, đồng sáng lập PILA, thành viên HĐĐT Quỹ Solaris Impact thuộc Pacific Bridge Capital, cho rằng con đường phát triển bền vững của Việt Nam gắn liền với Internet. Ông phân tích quá trình dịch chuyển, nơi dữ liệu trở thành ngôn ngữ chính và không gian số mở ra biên giới tăng trưởng mới.
Một nghịch lý lớn, theo ông Dũng, là tốc độ quay vòng vốn của Việt Nam chỉ bằng khoảng một phần ba Singapore. Nguyên nhân nằm ở việc phần lớn vốn bị "giam" trong tài sản đảm bảo, chủ yếu là bất động sản, khiến các dự án đổi mới sáng tạo gặp khó. Vì vậy, ông đề xuất mô hình quốc gia số gồm 3 lớp: dữ liệu, tài chính, kinh tế, nhằm tạo cấu trúc mới cho việc huy động và luân chuyển nguồn lực.
Ở góc độ pháp lý, TS Trần Quý - Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế số Việt Nam cho rằng, vấn đề cốt lõi của tài sản số nằm ở chữ "tài sản", nghĩa là phải có đầy đủ thuộc tính pháp lý, còn "số" chỉ là môi trường vận hành. Theo ông, tài sản số về bản chất là tài sản thật được ánh xạ trong môi trường số, đòi hỏi tư duy pháp lý mới và phương thức quản lý mới.
TS Quý mô tả hệ sinh thái tài sản số gồm hai chủ thể chính: tài sản số (VA) và nhà cung cấp dịch vụ tài sản số (VASP), cùng các đơn vị hỗ trợ như thẩm định, lưu ký. Nghị quyết 05 cho phép 5 đơn vị thử nghiệm, và theo ông, vấn đề không phải ở số lượng mà ở cách quản lý sao cho tài sản được vận hành trong một hệ sinh thái đầy đủ, đảm bảo niềm tin.
Ông phân chia thị trường thành "phần chìm", tài sản tạo ra tự do, thiếu luật lệ, và "phần nổi", nơi có khung pháp lý và quản lý. Mục tiêu của Nghị quyết 05 là tạo cầu nối giữa 2 phần thông qua niềm tin và công nghệ.
Tạo ra giá trị cốt lõi là "niềm tin số"
Ở góc độ địa phương, ông Trần Anh Tuấn - Giám đốc Sở KHCN Hà Nội cho biết, thành phố đang cụ thể hóa các định hướng phát triển theo Luật Thủ đô sửa đổi 2024 và Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị. Hà Nội là địa phương đầu tiên ban hành nghị quyết về sandbox, xác định 4 nhóm ưu tiên, bao gồm tài sản số. Thành phố cũng thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm với vốn mồi 600 tỉ đồng và thu hút khoảng 10 nhà đầu tư chiến lược. Song song đó, Hà Nội chuẩn bị vận hành Sàn giao dịch công nghệ, đồng thời tích hợp chức năng sàn giao dịch tài sản số.
Ông Trần Anh Tuấn cũng chia sẻ mục tiêu của Hà Nội từ năm 2026 đến 2030, tỷ trọng kinh tế số trong GDP phải đạt 40% trở lên, song song với đó là mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt từ 11% trở lên trong nhiều năm tới.
Với mô hình kinh tế truyền thống, mô hình tăng trưởng truyền thống thì rất khó có thể đạt được, hoặc nếu có đạt được cũng không thể bền vững. Vì vậy, chỉ có con đường khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và đặc biệt là những mô hình tăng trưởng mới như kinh tế số.
Trong khi đó, TS Trần Quý cũng cho rằng, mô hình Trung tâm tài chính quốc tế của Việt Nam không thể tách rời hệ sinh thái tài sản số. Về khung pháp lý, bước đầu đã hoàn thiện; TPHCM cũng đã khởi động những chương trình liên quan.
Hiện TPHCM và Đà Nẵng đang tích cực hoàn thiện khung vận hành cho các Trung tâm Tài chính quốc tế, để đưa những cơ chế đặc thù này vào thực tế.