Đề xuất đổi tên Luật Phá sản thành Luật Phục hồi, phá sản
Theo Đại biểu Phan Thị Nguyệt Thu (Đoàn Hà Tĩnh), hiện nay, một số nước có cơ chế phục hồi phá sản rất hiệu quả. Một số nước ban hành hai đạo luật riêng về phục hồi và phá sản như Nhật Bản, Ba Lan, Hà Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Bỉ. Vì vậy, việc đổi tên Luật Phá sản thành Luật Phục hồi, phá sản là rất cần thiết.
Ngày 21/11, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Phá sản (sửa đổi). Về quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân, Đại biểu Trần Văn Tiến (Đoàn Phú Thọ) cho rằng: Tại khoản 4 Điều 41 dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) đã sửa quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành quyền kiến nghị đối với quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản và thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.

Theo ông Tiến, quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân đối với các quyết định này nhằm bảo đảm các quyết định của Tòa án nhân dân thực hiện đúng quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã, người tham gia thủ tục giải quyết phá sản tại Tòa án, bảo đảm Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng, nhiệm vụ trong kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực này.
Ông Tiến đề nghị giữ nguyên quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân như quy định tại Luật Phá sản hiện hành. Bởi tại khoản 3 Điều 67 dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi): “quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân chỉ được thực hiện trong các trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị quyết định, tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản trong trường hợp quyết định đó xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước”.
Ông Tiến đánh giá, quy định như vậy đã thu hẹp quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Bởi theo khoản 1 Điều 107 của Hiến pháp năm 2013 và khoản 1 Điều 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: Viện kiểm sát nhân dân phải kháng nghị trong trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Do vậy, đề nghị giữ nguyên quy định thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân như Luật Phá sản hiện hành để bảo đảm tính toàn diện, đầy đủ, kịp thời, bảo vệ quyền của các chủ thể bị tác động của việc phá sản, nhất là các chủ nợ nhỏ lẻ, người lao động, nhóm người dễ bị tổn thương.
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn TP Hồ Chí Minh) tán thành với sự cần thiết sửa đổi Luật Phá sản. Theo đó, dự thảo Luật lần này đã thể hiện một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đặc biệt là nguyên tắc ưu tiên phục hồi và hài hòa lợi ích của các bên liên quan góp phần quan trọng vào việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, lành mạnh hóa nền kinh tế theo tinh thần của các nghị quyết Trung ương.

Về nguyên tắc cơ bản và chính sách nhà nước tại Điều 3 và Điều 4, ông Hùng đồng tình với việc bổ sung nguyên tắc cơ bản và chính sách nhà nước trong phục hồi, phá sản doanh nghiệp. Song, để cam kết hỗ trợ về thuế, tín dụng, lãi suất, đất đai thực sự đi vào cuộc sống, ông Hùng đề nghị xem xét cần quy định rõ hơn thời điểm và cơ quan chịu trách nhiệm ban hành các chính sách cụ thể, nếu chỉ giao Chính phủ hướng dẫn thì có thể chậm trễ, làm giảm hiệu quả của thủ tục phục hồi vốn cần triển khai nhanh để giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Đại biểu Phạm Văn Hoà (Đoàn Đồng Tháp) bày tỏ quan điểm việc thực hiện chính sách của Nhà nước về đất đai, về tín dụng, về hỗ trợ đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã có khả năng bị phá sản hoặc có khả năng phục hồi lại được là hết sức cần thiết. Đây là một chính sách nhân văn, tạo điều kiện thuận lợi cho những doanh nghiệp do làm ăn thua lỗ hoặc vì lý do nào khác mà bị mất khả năng thanh toán về thuế, ngân hàng hoặc bất động sản thì nhà nước hỗ trợ.
Nhưng hỗ trợ như thế nào, ông Hoà đề nghị quy định chi tiết, rành mạch, rõ ràng cấp nào hỗ trợ, cấp xã, cấp tỉnh hay cấp trung ương hay thực hiện theo Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, bởi hỗ trợ thì phải làm rõ ràng, rành mạch.

Đại biểu Phan Thị Nguyệt Thu (Đoàn Hà Tĩnh) đề xuất đổi tên của dự thảo Luật. Bà Thu cho rằng việc đổi tên không chỉ thể hiện là tên gọi mà còn nhằm thể hiện mục tiêu, định hướng xây dựng Luật, khuyến khích, ưu tiên phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã ngay từ khi có nguy cơ mất khả năng thanh toán để giúp doanh nghiệp, hợp tác xã có cơ hội hồi sinh và tiếp tục đóng góp cho nền kinh tế ngay cả khi mở thủ tục phá sản vẫn tiếp tục ưu tiên phương án phục hồi. Đây là nguyên tắc rất cơ bản thể hiện chính sách nhân văn của Nhà nước mà dự án Luật đã thể hiện rõ tại Điều 3. Tức là ưu tiên thủ tục phục hồi.
“Hiện nay, một số nước có cơ chế phục hồi phá sản rất hiệu quả, có nền kinh tế, văn hóa, pháp luật gần với Việt Nam. Ví dụ, Luật Phục hồi, phá sản đối với bên mắc nợ của Hàn Quốc; Luật Tái cấu trúc, phục hồi và phá sản của Ả rập, Ai Cập; Luật Tái cấu trúc và phá sản của Singapore. Bên cạnh đó, một số nước ban hành hai đạo luật riêng về phục hồi và phá sản như Nhật Bản, Ba Lan, Hà Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Bỉ. Vì vậy, tôi thấy việc đổi tên Luật Phá sản thành Luật Phục hồi, phá sản là rất cần thiết”, bà Thu nói.
Liên quan đến vấn đề trên, Chánh án Toà án nhân dân tối cao Nguyễn Văn Quảng cho rằng, thủ tục phục hồi và thủ tục phá sản bản chất là hai thủ tục độc lập với nhau. Trong đó thủ tục phục hồi được áp dụng trước thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Theo ông Quảng, ở đây phân định ra hai trường hợp, nguy cơ tức là chưa phải là hoàn toàn, chúng ta vẫn có thể xem xét áp dụng thủ tục để cho doanh nghiệp phục hồi, còn khi mất hoàn toàn khả năng thì chúng ta sẽ áp dụng thủ tục phá sản. Đây là một cách tiếp cận mới trong định hướng để hỗ trợ, phục hồi cho các doanh nghiệp. Thủ tục phá sản được áp dụng khi doanh nghiệp, hợp tác xã đã mất hoàn toàn khả năng thanh toán và trong thủ tục phá sản thì hội nghị chủ nợ có thể quyết định cho doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi và thông qua phương án phục hồi. Đây chính là một trong những việc để chủ nợ và doanh nghiệp tự lựa chọn và quyết định, gốc của vấn đề là thông qua các trình tự, thủ tục tư pháp để hội nghị chủ nợ và doanh nghiệp bàn bạc, thảo luận và có những phương án. Do đó, việc xem xét điều kiện để có thể phục hồi được hay không là hoàn toàn do hội nghị chủ nợ và chính doanh nghiệp sẽ quyết định chứ không phải là tòa án hay một cơ quan nào đó quyết định.
“Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đa số các nước trên thế giới theo mô hình ban hành một đạo luật có 2 nội dung và tên gọi là Luật Phục hồi, phá sản để bao quát được cả 2 nội dung này. Định hướng, mục tiêu sửa đổi lần này là khuyến khích, ưu tiên hoạt động phục hồi sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp khi có nguy cơ phá sản và đây chính là một trong những định hướng để chúng ta hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp, thẩm phán chỉ là người chủ trì hoạt động này”, ông Quảng bày tỏ.