Nhiều năm qua, khi nói về dự án xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách, sử dụng vốn ODA đội vốn lớn, chậm tiến độ kéo dài, nhà thầu nước ngoài, trách nhiệm thiếu rõ ràng… dư luận thường dẫn Dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông (Hà Nội) làm ví dụ.
Mới đây, Bộ Giao thông Vận tải tiếp tục trả lời kiến nghị của cử tri Hà Nội về dự án này, với các nguyên nhân rõ ràng hơn, thẳng thắn nhận trách nhiệm về mình. Dù vậy, giải pháp ra sao, khi nào dự án đưa vào khai thác vẫn là dấu hỏi lớn.
Dự án tuyến đường sắt Cát Linh – Hà Đông vẫn chưa thể đưa vào khai thác.
Bộ GTVT nhận trách nhiệm cùng Tổng thầu Trung Quốc
Dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông đã hết thời hạn chạy thử tàu liên động từ tháng 3/2019 (chạy thử 6 tháng), đúng ra, như cam kết của Bộ GTVT, dự án hết chạy thử đã đưa vào vận hành thương mại ngay sau đó. Tuy nhiên, từ đó tới nay, Dự án vẫn chưa thể nghiệm thu để khai thác thương mại. Dù theo Bộ GTVT, tiến độ xây dựng đã hoàn thành 99% từ tháng 9/2018. Số 1% còn lại, và hồ sơ kỹ thuật, bàn giao, nghiệm thu… đã gần 1 năm trôi qua, vẫn chưa thể hoàn thành.
Ít ngày trước, Bộ GTVT đã có văn bản 7323/BGTVT-CQLXD gửi Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội trả lời kiến nghị cử tri. Theo đó, cử tri Hà Nội đề nghị làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan và xử lý nghiêm đối với các dự án kéo dài thời gian, đội vốn như Dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông và sớm đưa tuyến đường sắt này vào sử dụng, phục vụ nhu cầu đi lại của người dân.
Trả lời cử tri, Bộ GTVT cho hay, Dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông sử dụng vốn vay ODA Trung Quốc (ký năm 2008). Tổng thầu EPC do bên tài trợ vốn chỉ định là Cty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 đường sắt Trung Quốc. Tư vấn giám sát là Cty TNHH giám sát xây dựng Viện Nghiên cứu thiết kế công trình đường sắt Bắc Kinh.
Về nguyên nhân chủ quan khiến Dự án trên chậm tiến độ, đội vốn, Bộ GTVT lý giải do thiết kế cơ sở ban đầu còn sơ sài, nên phải điều chỉnh tại bước thiết kế kỹ thuật; chờ nhà tài trợ phê duyệt hợp đồng, cấp hiệu lực cho Hiệp định vay vốn bổ sung kéo dài; Ngân hàng xuất nhập khẩu Trang Quốc (China Eximbank) là cơ quan quản lý, cung cấp nguồn vốn vay không thiết lập đại diện thường trú tại Việt Nam, ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành cấp vốn thực hiện Dự án; Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc (Tổng thầu EPC) chưa có kinh nghiệm trong triển khai thực hiện Dự án tổng thể theo hình thức hợp đồng EPC, chưa thực hiện theo đúng cam kết về tiến độ, thiếu kinh nghiệm trong việc thiết kế; Cách thức triển khai thực hiện Dự án ở mỗi nước có sự khác biệt, trong khi Tổng thầu lần đầu thực hiện Dự án tại Việt Nam dẫn đến công tác quản lý điều hành còn nhiều lúng túng, bất cập; Công tác giải ngân của Hiệp định vay bổ sung gặp nhiều vướng mắc do các bên chưa thống nhất được ý kiến pháp lý; Các quy định và chế tài xử lý đối với họp đồng EPC chưa đầy đủ.
Về nguyên nhân khách quan, Bộ GTVT nhìn nhận: Công tác giải phóng mặt bằng tại Hà Nội rất chậm và phức tạp, không đáp ứng được yêu cầu của công tác khảo sát thiết kế kỹ thuật; Khác biệt về quy định giữa hai quốc gia về các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình, quy phạm trong bước thiết kế, thi công và dự toán gây khó khăn trong công tác điều hành, tổ chức thực hiện; Quy định hiện hành của Việt Nam về thực hiện hợp đồng EPC chưa đầy đủ, đồng bộ. Ngoài ra, dự án còn chịu ảnh hưởng của lạm phát trong giai đoạn thực hiện, ảnh hưởng lớn đến giá nhân công, vật tư, vật liệu xây dựng.
Sau khi chỉ ra các nguyên nhân trên, Bộ GTVT nhận một phần trách nhiệm liên quan tới việc chậm tiến độ, đội vốn của dự án. Theo đó, Bộ GTVT là chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án Đường sắt (đại diện chủ đầu tư) chịu trách nhiệm trong công tác quản lý điều hành Dự án; Tư vấn thiết kế bước lập dự án chịu trách nhiệm về chất lượng lập dự án đầu tư; UBND TP Hà Nội chịu trách nhiệm về việc chậm trễ trong công tác giải phóng mặt bằng; Tư vấn giám sát chịu trách nhiệm trong công tác chỉ đạo thi công, quản lý tiến độ, chất lượng, giá thành xây đựng.
Đường sắt Cát Linh - Hà Đông chạy thử từ tháng 9/2018, kế hoạch sau 6 tháng sẽ khai thác thương mại, nhưng tới nay vẫn chưa hẹn ngày khai thác.
Không loại trừ khả năng khởi kiện
Còn về giải pháp, Bộ GTVT cho hay, dù các bên liên quan đã quyết liệt chỉ đạo nhưng Dự án vẫn triển khai rất chậm, đến nay vẫn chưa thể hoàn thành và có nguy cơ kéo dài do một số nội dung Tổng thầu không thực hiện theo chỉ đạo của Bộ. Các khó khăn, vướng mắc đã được Bộ GTVT báo cáo Thủ tướng, Văn phòng Trung ương Đảng, Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán Trung Quốc để hỗ trợ chỉ đạo và có các giải pháp giải quyết nhằm đưa Dự án vào vận hành khai thác trong thời gian sớm nhất. Đồng thời Bộ GTVT đã chỉ đạo Ban Quản lý dự án Đường sắt chủ động rà soát các điều khoản trong hợp đồng EPC, xác định rõ trách nhiệm của Tổng thầu và các bên liên quan để xử lý, giải quyết các khiếu kiện trong trường hợp cần thiết, phù hợp với điều kiện của hợp đồng EPC.
TS Nguyễn Ngọc Long- Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật cầu đường Việt Nam cho rằng, theo thông lệ, khi dự án chậm tiến độ so với hợp đồng, bên nào gây ra phải chịu trách nhiệm, thậm chí xử phạt. Tuy vậy, hợp đồng EPC của Dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông quy định ra sao, các điều khoản xử lý, phạt hợp đồng thế nào…không được công bố, nên cũng khó đánh giá. Dù hợp đồng thế nào, trách nhiệm các bên ra sao, theo ông Long, Bộ GTVT trên cương vị chủ đầu tư phải chịu trách nhiêm chính và cao nhất, từ khi đàm phán ký hợp đồng tới triển khai, và phải xử lý rõ ràng, vì dự án chậm ngày nào sẽ thiệt hại kinh tế ngày đó, không thể nói lý do chậm rồi để đó. Cũng theo ông Long, ông thấy khá lạ trong hoạt động chạy thử tàu đường sắt Cát Linh - Hà Đông vừa qua, vì các tàu chạy khá rời rạc, lâu lâu có 1 chuyến. Trong khi, trên thế giới, khi tàu chạy thử liên động, các đoàn tàu, bộ phận liên quan phải vận hành như khi khai thác thương mại. Chẳng hạn, khi khai thác thương mại các đoàn tàu chạy 5 phút mỗi chuyến, thì khi chạy thử cũng phải 5 phút 1 chuyến.
* Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông có chiều dài tuyến đi trên cao là 13,5km (từ Cát Linh đi Hà Đông), khổ ray 1.435mm và 12 nhà ga trên cao, với 13 đoàn tàu. Tổng vốn đầu tư ban đầu hơn 552 triệu USD lên 891,9 triệu USD (tăng thêm 339,1 triệu USD, tăng gần 40%, sử dụng vốn vay ODA Trung Quốc và đối ứng của Việt Nam). Dự án khởi công tháng 10/2011. Ban đầu, dự kiến dự án hoàn thành và đưa vào khai thác thương mại từ tháng 6/2015; sau đó lùi tới tháng 6/2016; rồi tháng 12/2016; tháng 2/2017, tháng 10/2017; quý II/2018; cuối năm 2018; tháng 4/2019. Tuy nhiên, tới nay dự án vẫn chưa hẹn ngày về đích.