Làng nghề không đơn thuần là nơi tạo ra sản phẩm, tạo thu nhập, mang lại kế sinh nhai cho hàng triệu người dân nông thôn, mà còn là nơi lưu giữ hồn cốt văn hóa, truyền thống cha ông. Tuy nhiên, đa số làng nghề đang rơi vào tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng. Khi bàn tay của lớp nghệ nhân già yếu dần đi thì khoảng trống kế thừa vẫn chưa được lấp đầy.
Theo thống kê, nước ta có hơn 5.000 làng có nghề đã và đang tạo sinh kế cho hàng triệu người dân nông thôn. Các ngành hàng thủ công - mỹ nghệ mỗi năm xuất khẩu tới hàng tỷ đô la, với gần 813 nghìn cơ sở sản xuất, hơn 2,3 triệu lao động – phần lớn nằm trong lòng các làng nghề. Thế nhưng, phía sau những con số này là một bức tranh nhân lực ảm đạm: hơn 80% thợ làng nghề hiện nay đã ngoài tuổi lao động, việc phát triển còn chưa tương xứng với tiềm năng, nhiều làng nghề không cạnh tranh được trên thị trường đã bị mai một.
Tại làng dệt Lũng Niêm (Thanh Hóa), nơi từng vang bóng với hàng nghìn lao động miệt mài bên khung cửi, nay chỉ còn chưa đến 200 người, trong đó thanh niên đếm trên đầu ngón tay. Làng mành Đỗ Xá (Nam Định) một thời nổi danh khắp Bắc Bộ, giờ cũng chỉ còn vài hộ theo nghề, phần lớn là các cụ già tóc bạc. Những bí quyết của làng, thứ từng là cốt lõi của tinh hoa làng nghề, nay đối diện nguy cơ rơi vào quên lãng.
Theo nhiều chuyên gia, điểm nghẽn lớn nhất khiến hàng thủ công - mỹ nghệ Việt Nam đánh mất lợi thế trên thị trường chính là sự đơn điệu, chậm đổi mới trong mẫu mã, kiểu dáng. Những họa tiết cũ kỹ, hình thức lặp đi lặp lại khiến sản phẩm dần mất đi sức hút giữa một thị trường đầy biến động và sáng tạo không ngừng. Thêm nữa là khoảng trống đáng lo ngại về lực lượng kế cận: thiếu những bàn tay trẻ tài hoa, thiếu nguồn nhân lực có kỹ thuật cao và tư duy sáng tạo. Trong khi đó, phần lớn các nghệ nhân lớn tuổi vẫn còn giữ lối nghĩ bảo thủ, khó thích nghi với những yêu cầu hiện đại của thị trường. Lực lượng lao động trẻ nếu còn trụ lại làng quê thì cũng thiếu kinh nghiệm, chưa được trang bị bài bản về thẩm mỹ, kỹ thuật và thị hiếu thị trường để có thể tạo ra những thiết kế mới, bắt kịp xu hướng.
Đi sâu vào thực trạng, có thể thấy công tác đào tạo và truyền nghề trong nhiều năm qua vẫn còn rời rạc, thiếu chiều sâu. Việc phong tặng, tôn vinh nghệ nhân chưa được chú trọng đúng mức, vai trò của những người thợ giỏi, vốn là kho tàng sống của nghề chưa thực sự được phát huy trong việc dẫn dắt, truyền lửa cho thế hệ kế tiếp. Hệ quả là không ít nghề truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một, kéo theo sự thất truyền của cả những bí quyết tinh hoa đã được chắt lọc qua bao đời.
Chuyên gia Nguyễn Thị Thu Hường, người nhiều năm nghiên cứu về lao động làng nghề chỉ ra rằng, việc dạy nghề tại các làng nghề hiện nay vẫn chủ yếu theo lối “cầm tay chỉ việc”, hoặc tổ chức các lớp học ngắn ngày mang tính tình thế. Trong khi đó, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo còn lạc hậu, manh mún, chủ yếu dựa vào các hộ gia đình hoặc cơ sở sản xuất nhỏ lẻ. Ngay cả tại một số trường nghề, chương trình giảng dạy cũng chưa thực sự gắn với nhu cầu thực tiễn của từng làng nghề, từng sản phẩm cụ thể.
Theo ý kiến của các chuyên gia, nghệ nhân là người viết nên lịch sử của mỗi nghề. Bởi thế, muốn giữ nghề trước hết phải giữ lấy nghệ nhân. Phải có chính sách hỗ trợ thiết thực, giúp họ vừa sống được bằng nghề, vừa có điều kiện đào tạo thế hệ kế thừa. Những lớp truyền nghề do chính nghệ nhân dẫn dắt, gắn kết chặt chẽ với các cơ sở sản xuất sẽ là chiếc cầu bền vững nối quá khứ với tương lai.
Song hành cùng đó, cần khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, nhất là tư nhân, trong công tác đào tạo nghề. Phải có chương trình học chia cấp độ, giúp người học thạo nghề, để họ không chỉ “làm cho có” mà có thể sống được bằng nghề.
Hà Nội là nơi tập trung nhiều làng nghề nhất cả nước, nhưng thiếu các khu trưng bày, giới thiệu sản phẩm, là nơi mà du khách có thể đến du lịch trải nghiệm, mua sắm. Trong những năm qua, Sở Công thương Hà Nội đã công nhận mô hình Trung tâm Thiết kế sáng tạo, giới thiệu, quảng bá và bán sản phẩm OCOP, làng nghề gắn với du lịch cấp xã cho 10 địa điểm gồm: Làng nghề gốm sứ Bát Tràng, xã Bát Tràng và làng nghề gốm sứ Kim Lan, xã Kim Lan (Gia Lâm); làng nghề sơn mài Hạ Thái, xã Duy-ên Thái (Thường Tín); làng nghề khảm trai Chuyên Mỹ, xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên); làng nghề gỗ mỹ nghệ Thiết Úng, xã Vân Hà (Đông Anh); làng nghề may áo dài Trạch Xá, xã Hòa Lâm (Ứng Hòa); làng nghề dệt lụa tơ tằm Vạn Phúc, phường Vạn Phúc (Hà Đông); làng nghề mây tre đan Phú Vinh, xã Phú Nghĩa (Chương Mỹ); làng nghề bánh chưng, bánh dày Tranh Khúc, xã Duyên Hà (Thanh Trì); làng nghề Sơn Đồng, xã Sơn Đồng (Hoài Đức).
Tuy đã có nhiều nỗ lực từ các cấp, nhưng câu chuyện về cơ sở hạ tầng dành cho các trung tâm thiết kế, quảng bá sản phẩm tại làng nghề vẫn còn nhiều khúc mắc. Không phải làng nghề nào cũng có thể bố trí được địa điểm riêng để xây dựng trụ sở, mở trung tâm. Ngay tại huyện Phú Xuyên, vùng đất nổi danh với nhiều nghề truyền thống, đến nay mới chỉ có một mô hình Trung tâm Thiết kế sáng tạo, giới thiệu, quảng bá và bán sản phẩm OCOP gắn với du lịch làng nghề xã Chuyên Mỹ được đưa vào hoạt động. Còn lại, phần lớn các hộ gia đình vẫn tự xoay xở, bày bán sản phẩm ngay trong sân nhà, thiếu tính chuyên nghiệp và sức lan tỏa.
Ông Vũ Văn Đình, Giám đốc Trung tâm Thiết kế sáng tạo, giới thiệu, quảng bá và bán sản phẩm OCOP, làng nghề gắn với du lịch xã Chuyên Mỹ, chia sẻ rằng trung tâm hiện nay được cải tạo từ một ngôi trường tiểu học cũ, một giải pháp tình thế nhằm có nơi trưng bày, giới thiệu các sản phẩm truyền thống của làng. Ông Đình đau đáu: “Chúng tôi rất muốn mở rộng trung tâm. Hiện nay địa phương đã có quy hoạch, có quỹ đất. Nếu được các cơ quan chức năng tạo điều kiện, chỉ cần một chút cơ chế hỗ trợ, chúng tôi hoàn toàn có thể huy động nguồn lực xã hội để cải tạo, xây dựng một trung tâm khang trang hơn, xứng tầm hơn."
Ông Đình cho rằng, một trung tâm hoạt động hiệu quả không chỉ góp phần quảng bá sản phẩm làng nghề đến đông đảo du khách trong và ngoài nước, mà còn là điểm tựa để thế hệ trẻ nhìn thấy được tiềm năng, sức sống và cơ hội phát triển bền vững từ nghề truyền thống. “Khi người trẻ thấy nghề có tương lai, có không gian chuyên nghiệp để sáng tạo và cống hiến, chắc chắn họ sẽ quay về, gắn bó với làng, với nghề”, ông Đình tâm sự.
Còn ông Trịnh Quốc Đạt - Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho rằng, dù những năm qua Nhà nước đã đầu tư xây dựng nhiều trung tâm dạy nghề truyền thống tại các địa phương, nhưng hiệu quả hoạt động vẫn còn khiêm tốn, chưa đáp ứng được kỳ vọng về phát triển bền vững nguồn nhân lực cho làng nghề.
“Cần có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào công tác đào tạo tại chỗ. Nghề thủ công - mỹ nghệ đòi hỏi kỹ thuật cao, không thể chỉ học một vài tuần là làm được. Khóa học ngắn ngày chỉ giúp học viên làm được những công đoạn giản đơn. Muốn có thợ giỏi, phải tổ chức đào tạo chuyên sâu, chia theo từng cấp độ, theo hướng nghề nghiệp thực tiễn”, ông Đạt chia sẻ.
Việc hồi sinh và phát triển bền vững của làng nghề không chỉ trông chờ vào chính sách từ bên ngoài mà còn nằm ở chính sự chủ động từ bên trong. Mỗi làng nghề cần biết nắm bắt cơ hội, tận dụng tối đa sự hỗ trợ từ các chương trình, dự án của Nhà nước. Song song với đó, đội ngũ nghệ nhân, những người am hiểu sâu sắc nghề truyền thống cần mạnh dạn lên tiếng, chủ động đề xuất với chính quyền địa phương về các giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực, đổi mới quản lý, từng bước xây dựng lực lượng kế cận đủ năng lực, đủ đam mê để giữ nghề và phát triển nghề.