Không phải đến lúc Tổng thống Mỹ Barack Obama khi thăm Việt Nam đã trích câu “Từ nay người biết yêu người, từ nay người biết thương người...” người ta mới nhận ra tầm vóc của nhạc sĩ Văn Cao. Từ lâu, những ca khúc của ông, đặc biệt là “Tiến quân ca” đã in sâu vào trái tim người Việt Nam, được cả thế giới biết đến.
Bà Nghiêm Thúy Băng - vợ nhạc sĩ Văn Cao
thay mặt chồng đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh từ Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
1. Sau 72 năm ra đời và gắn bó với lịch sử dân tộc, ngày 15/7 vừa qua đánh dấu một sự kiện đặc biệt khi ca khúc “Tiến quân ca”- Quốc ca của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - chính thức được gia đình cố nhạc sĩ Văn Cao hiến tặng cho Nhà nước và nhân dân Việt Nam, trở thành tài sản quốc gia- báu vật chung của dân tộc. Đây cũng chính là nguyện vọng của nhạc sĩ Văn Cao lúc sinh thời. Cũng dịp này, cố nhạc sĩ Văn Cao được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cao quý để ghi nhận những đóng góp của ông cho Tổ quốc.
Ít ngày sau sự kiện đầy ý nghĩa ấy, tôi gọi điện thoại xin gặp bà Nghiêm Thúy Băng- vợ nhạc sĩ Văn Cao. Mấy năm nay, tuổi già khiến bà Băng đã yếu nhiều. Bữa tôi gọi điện, bà đang chuẩn bị đi gặp bác sĩ, nên bà dặn, có gì muốn trao đổi thêm, cứ gặp các con bà. Họa sĩ Văn Thao hay nhà thơ- nhạc sĩ Nghiêm Bằng đều có thể chia sẻ. Tôi đã gặp bà Nghiêm Thúy Băng nhiều lần, lần nào cũng thấy ở bà toát ra một vẻ đẹp, sự chỉn chu của một tiểu thư Hà Nội những năm đầu thế kỷ 20.
Khi xưa, tôi viết xong một bài báo nhỏ về nhạc sĩ Văn Cao, bà cũng có thư cảm ơn, chia sẻ với những xúc động chân thành, cuối thư đề “Bà quả phụ nhạc sĩ Văn Cao”. Tôi nghĩ, hiếm có người nào lại chi chút cho chồng được như bà, kể cả lúc ông đã mãi mãi đi xa. Bà đã giữ gìn cẩn thận từng vật kỷ niệm nhỏ của Văn Cao, cất giữ ngăn nắp trong căn phòng ở số 108 phố Yết Kiêu (Hà Nội), nơi ấy hằn in bóng hình Văn Cao, cũng là nơi chứng kiến bao thăng trầm của một bậc “tài danh thế kỷ”.
Tôi vẫn còn nhớ nụ cười của bà khi đứng cạnh Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân để trao văn bản hiến tặng tác phẩm “Tiến quân ca”, cũng như gương mặt rạng rỡ của bà khi thay mặt chồng đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh. Hôm đó, bà cũng không đủ khỏe để phát biểu gì nhưng ánh mắt bà lấp lánh niềm vui. Bởi bà đã đại diện cho chồng và thay mặt toàn thể gia đình, làm một việc vô cùng ý nghĩa. Đúng như phát biểu sau đó của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân: “Đây là niềm tự hào, một vinh dự to lớn mà chưa một tác phẩm âm nhạc Việt Nam nào có được”.
2. Văn Cao là một tài hoa thiên bẩm, nhạc sĩ của nhiều bài hát rung động lòng người, những ca khúc trở thành một phần trong tài sản tinh thần của biết bao thế hệ người Việt. Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc, những tác phẩm của Văn Cao được quảng đại quần chúng ưa thích, bất kể nó là tình khúc hay ca khúc.
Với “Tiến quân ca”, Văn Cao đã thực sự bộc lộ tài năng. Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân- Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam khẳng định: “Tiến quân ca”- Quốc ca là quốc hồn, quốc túy, là tinh thần dân tộc được kết tinh qua giai điệu, lời ca. Âm nhạc ấy, được bao thế hệ người dân Việt Nam hát vang đầy tự hào, đặc biệt là chiến sĩ đồng bào đã đi qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, từng hát, từng nâng niu trân trọng như một vật báu của dân tộc.
Tượng nhạc sĩ Văn Cao.
Khi sáng tác ca khúc này vào tháng 10-1944 Văn Cao mới bước vào tuổi 21. Đó là phút giây lóe sáng, thể hiện tài năng đích thực của Văn Cao, nhất là trong bối cảnh đất nước hồi ấy còn vô vàn khó khăn.
Bây giờ, khi “Tiến quân ca” tròn 72 tuổi và đã 21 năm nhạc sĩ Văn Cao trút hơi thở cuối cùng (10-7-1995), thì những ký ức về Văn Cao cùng bản hùng ca bất tử này vẫn còn tươi nguyên trong trí nhớ của những người thân.
Trong căn phòng nhỏ ở khu tập thể Vạn Bảo (Hà Nội), nhà thơ Nghiêm Bằng- con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao chia sẻ: Lúc sinh thời, mỗi khi bài “Tiến quân ca” vang lên, Văn Cao thường nghĩ đến người bạn, người anh và cũng là người lãnh đạo đầu tiên, trực tiếp giác ngộ ông vào Việt Minh hồi năm 1944 tại Hà Nội. Người đó là Vũ Quý- một huấn luyện viên bơi lội, bấy giờ đang là lãnh đạo trong Ban cán sự TP. Hà Nội. Khi đó Văn Cao vừa từ Hải Phòng lên, chưa có việc làm. Sau khi hỏi thăm, Vũ Quý đã nhận Văn Cao vào tổ chức Việt Minh, và giao nhiệm vụ cho Văn Cao sáng tác ngay một bài hát để hát trong ngày ra đời sắp tới của một đội quân vũ trang khóa quân chính kháng Nhật trên chiến khu Trần Hưng Đạo…
Một thời gian sau đó, gặp lại Vũ Quý, Văn Cao lấy cây đàn ghita vừa đệm vừa hát cho Vũ Quý nghe. Vũ Quý rất hài lòng, ông đề nghị Văn Cao chép lại một số bản để chuyển lên chiến khu. Sau đó, Văn Cao được Vũ Quý giao nhiệm vụ cùng với Nguyễn Đình Thi sang hoạt động bên Đảng Dân chủ. Văn Cao chịu trách nhiệm phụ trách nhà in bí mật Phan Chu Trinh, trình bày báo Độc Lập, in tài liệu cho Mặt trận Việt Minh. Vì người thợ nhà in không viết được nốt nhạc, tháng 11-1944 Văn Cao phải trực tiếp xuống cơ sở in bí mật tại làng Bát Tràng, tự tay viết bài “Tiến quân ca” lên đá, in trên trang văn nghệ của tờ báo Độc Lập số đầu tiên. Bài “Tiến quân ca” ra đời, và đã được lan truyền tới nhiều nơi...
3. Cuộc đời Văn Cao nếu viết hồi ký cũng sẽ có rất nhiều chuyện mà thế hệ sau muốn biết. Nhưng sinh thời Văn Cao không xuất bản cuốn hồi ký nào. Ông chỉ viết nhạc, viết thơ, vẽ tranh và phần nhiều là ngồi lặng im, như bất động, trong căn phòng khách thiếu ánh sáng ở 108 phố Yết Kiêu mà nhấp chén rượu trắng. Có khi ông ngồi với những bạn văn, và phần nhiều trong những cuộc rượu ấy, ông vẫn ít nói, vẫn im lặng. Đó là phẩm cách của Văn Cao. Nó làm nên một giá trị riêng của ông.
...Ngày 22/12/1944, bài “Tiến quân ca” được sử dụng làm bài ca chính thức của 34 chiến sĩ đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Ngày 16 và 17/8/1945 tại Đại hội quốc dân đồng bào Tân Trào, “Tiến quân ca” được chọn làm Quốc ca của Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ Trung ương lâm thời. “Tiến quân ca” ra mắt lần đầu tại quảng trường Nhà hát Lớn trong cuộc mít tinh biểu dương lực lượng của nhân dân Hà Nội ủng hộ Mặt trận Việt Minh ngày 19/8/1945. Họa sĩ Văn Thao- con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể lại, “tôi từng nghe cha kể rằng ông đã trào nước mắt và chính thời điểm đó ông hiểu rằng, bài hát này không còn của riêng mình nữa mà đã thuộc về nhân dân. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, “Tiến quân ca” đã, đang và vẫn tiếp tục cùng dân tộc Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ sự vững bền của Tổ quốc”.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, hàng triệu quần chúng nhân dân đã hát vang bài “Tiến quân ca” trong lễ chào cờ tại buổi Lễ Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến tháng 3-1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa 1, “Tiến quân ca” chính thức được chọn làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được ghi vào Điều 3 của Hiến pháp năm 1946.
Tuy vậy, để bản “Tiến quân ca” trở thành Quốc ca vang lên như ngày nay thì năm 1955, Quốc hội đã mời nhạc sĩ Văn Cao tham gia sửa chữa một số chỗ về phần lời. Theo đó, câu “Thề phanh thây uống máu quân thù” dù rất đúng với hoàn cảnh lúc đó có tới 2 triệu người chết đói nhưng chính Văn Cao cũng thống nhất sửa lại là: “Vì nhân dân chiến đấu không ngừng”...
Có điều gì trước khi mất Văn Cao còn băn khoăn không? Tôi đã hỏi con trai ông- nhà thơ Nguyễn Nghiêm Bằng. Nhìn lên tấm ảnh người cha đang nhấp chén rượu được NSNA Nguyễn Đình Toán ghi lại, nhà thơ Nghiêm Bằng trầm ngâm: Nhiều hôm, khuya lắm rồi cha tôi vẫn nâng chén rượu lên, gọi tôi lại để trò chuyện. Cụ cũng có những băn khoăn, những băn khoăn ấy cụ từng tâm sự với các bạn văn như Nguyễn Tuân, Bùi Xuân Phái… Ví như cụ băn khoăn về một vài câu trong “Tiến quân ca” bị sửa lại, bất như ý. Như câu trong Lời 2 Văn Cao viết: “Cùng chung sức kiến thiết xây đời mới” thì lại sửa thành: “Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới”; hay câu kết: “Núi sông Việt Nam ta vững bền” thì sửa là: “Nước non Việt Nam ta vững bền”. Nhưng thôi, chuyện cũng qua rồi, cũng là một phần của lịch sử bài Quốc ca…
Bây giờ, ở cõi Thiên thai có lẽ Văn Cao vẫn đang nâng chén rượu trắng và dõi mắt về những “Bến xuân”, những “Mùa xuân đầu tiên”… của đời mình.
Vào năm 1981, kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa 6 đã quyết định tổ chức một cuộc vận động sáng tác Quốc ca mới, để thay thế bài “Tiến quân ca”. Cuộc vận động được chuẩn bị rất công phu, thông tin tuyên truyền rộng rãi. Trong thời hạn nhận ca khúc dự thi từ tháng 5-1981 đến tháng 12-1981, đã có gần 1.500 bài hát do nhạc sĩ chuyên nghiệp lẫn không chuyên gửi về. Qua 2 vòng sơ tuyển, Ban vận động chọn được 17 bài hát để trình lên Quốc hội nghe và giới thiệu rộng rãi để lấy ý kiến nhân dân. Nhưng cuối cùng, Quốc hội quyết định tiếp tục giữ bài “Tiến quân ca” là Quốc ca, bởi đó chính là ý nguyện của đông đảo nhân dân.