Thời gian này, tôi cơ bản đang đi thực tế để xây dựng kịch bản phim tài liệu về vũ khí của người Việt trong tiến trình tự vệ, đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng đất nước. Tôi rất băn khoăn, ở một điểm, vũ khí của người Việt, của cha ông ta cơ bản là rất thô sơ, giản phác, hiệu năng chiến đấu không cao (cũng có thể là do thất tán hoặc công tác lưu giữ, sưu tầm, hệ thống chưa đúng mức) thế mà cha ông ta đã tạo nên những võ công chói lọi.
Truyền thống tịch điền được sự ngưỡng mộ của người dân từ xa xưa đến nay. (Ảnh: TTXVN).
Tìm hiểu nguyên nhân để có những thành quả ấy, cũng dần dần thấy được căn nguyên sâu xa nhưng hết sức khoa học đã làm nên thành quả dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Đó là một quá trình tiếp nối, hoàn thiện, phát triển rất đặc sắc, mới mẻ nghệ thuật dựng nước và giữ nước với nhiều điểm khác thường, đặc biệt mà sách lược Khoan thư sức dân là một trong số ấy.
Theo sử cũ và truyền thuyết, vua tổ Hùng Vương thứ nhất dựng nước và các vua Hùng nối đời kế nghiệp đã sớm biết chăm dân, dưỡng dân, dạy dân, kéo dài sự hưng thịnh của triều đại mình. Ngay khi lập Quốc đô ở Phong Châu (nay thuộc Phú Thọ), các vua Hùng đã biết chia nước ra làm các bộ để chăm lo đời sống của dân. Chính vì biết lưu tâm dưỡng sức dân, nhà nước Văn Lang thời đại Hùng Vương là một nhà nước sớm có các thiết chế, tổ chức xã hội khá hoàn thiện, đất nước có quy củ, người dân yên hưởng thái bình. Kẻ thù mà kẻ thù chính yếu là giặc phương Bắc không thể làm gì được trong suốt một thời gian dài.
Về thời đại Hùng Vương, thiết nghĩ, trong thời gian tới, những người làm sử Việt nhất định phải lưu tâm và làm rõ một cách khoa học những thành tựu đạt được của thời đại này. Việc chăm dân, giữ dân để dân hết lòng tín phục là một trong những thành công đặc biệt của thời đại Hùng Vương. Chính vì điều này, nhân dân các dân tộc Việt Nam vẫn đời đời nhớ về công đức của tổ tiên. Hàng năm, đến ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, toàn dân hướng về ngày Quốc lễ - Giỗ Tổ - cúng tế hết sức trọng thể.
Không phải ngẫu nhiên mà 18 đời vua Hùng được truyền nối. Trong nhiều lý do, chắc chắn có một lý do là lòng dân đã tạo thế vững chắc cho thời đại các vua Hùng.
Tiếp đến thời Thục An Dương Vương mà tiêu biểu là Thục Phán lập nước Âu Lạc đã mạnh dạn dời kinh đô về đồng bằng, chọn đất Kẻ Chủ thuộc bộ Vũ Ninh để định đô (nay thuộc Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội) đây cũng là kinh đô đầu tiên của người Việt tại đồng bằng, kề sát trung tâm Hà Nội ngày nay.
Chúng tôi cho rằng, việc định đô ở Cổ Loa cũng là dựa vào tâm nguyện và ý chí của nhân dân. Chính vì biết dưỡng sức dân, mở đất chăm dân nên việc định đô ở địa hình bằng phẳng rộng lớn, dựa vào các địa thế sông hồ liên hoàn cũng là biểu hiện trí tuệ của nhân dân là vô hạn mà những người đứng đầu nhà nước Âu Lạc đã biết cách sử dụng. Thành Cổ Loa trải hơn hai nghìn năm lịch sử hiện vẫn đang là một di chỉ văn hóa lịch sử quan trọng, chứng minh bàn tay lao động tài tình của nhân dân nhà nước Âu Lạc.
Qua thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất với hai giai đoạn bị Triệu thống trị (179 đến 111 TCN) bị Tây Hán thống trị (111 TCN đến 39 SCN) đến thời Trưng Nữ Vương đã cho thấy do xa dời nhân dân mà mất nước, đất nước rơi vào đêm trường nô lệ.
Thời Trưng Nữ Vương kéo không dài đã được các nhà nghiên cứu lịch sử phân tích khá thấu đáo nhưng theo chúng tôi, sở dĩ việc lập nước và giữ nước không được lâu bền phần lớn do kẻ thù quá tàn bạo đã gần như giết sạch người dân mà chúng bắt được hoặc những người đứng đầu các bộ lạc bấy giờ chưa cố kết được các tầng lớp nhân dân để giành lại nước.
Tiếp đó là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai kéo dài 5 thế kỷ: Đông Hán thống trị từ năm 43 đến năm 220; Ngô thống trị từ năm 220 đến năm 280; Tấn, Tống, Tề, Lương thống trị từ năm 280 đến 544. Đây có thể gọi là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc mà điểm sáng duy nhất là khởi nghĩa giành độc lập của Triệu Thị Trinh với câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô nệ chứ không thèm cúi đầu, khom lưng làm tì thiếp người!” Cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh đã cho thấy sức dân là vô tận và chỉ khi được nhân dân ủng hộ thì các cuộc khởi nghĩa mới có thể giành được thắng lợi.
Tiếp đến là thời tiền Lý do Lý Bí sáng lập năm 544 gồm ba đời vua tồn tại trong 58 năm trước khi lại rơi vào ách đô hộ của giặc phương Bắc.
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba kéo dài trên 300 năm (603-907) dưới ách đô hộ của nhà Tùy và nhà Đường. Trong thời kỳ này, các cuộc khởi nghĩa vẫn liên tiếp nổ ra và nhiều lần nước ta đã giành được độc lập. Tiêu biểu là ông vua đen Mai Hắc Đế - Mai Thúc Loan (721-726); Bố cái Đại vương Phùng Hưng (766-789); Dương Thanh (819-820).
Tiếp đó là thời Khúc, Dương tự chủ (905-937). Nguyên nhân để giành được nền tự chủ cũng chính là lòng dân đã quật khởi vùng lên đánh đổ giặc đô hộ phương Bắc. Ngay khi cùng với nhân dân giành quyền tự chủ, Khúc Thừa Dụ, một hào trưởng vùng Hồng Châu (nay thuộc Hải Dương) vốn được nhân dân tin yêu mến phục đã sớm tổ chức bộ máy chính quyền trên tinh thần tôn trọng và phát huy sức dân, giảm nhiều sưu thuế cho dân chúng. Chính vì được lòng dân, nhà Đường đã phải xuống chiếu công nhận Khúc Thừa Dụ làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, tức là thừa nhận cho người Việt làm chủ đất Việt.
Thời Ngô Vương Quyền (939-967), trước khi đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, từng mắng địch một câu nổi tiếng: “…Hoằng Thao là một đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu đem cọc lớn vạt nhọn đầu, bịt sắt đóng ngầm ở cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát”.
Chỉ có là người xuất thân từ nhân dân, đồng cam cộng khổ với nhân dân, thuộc từng lạch sông cửa biển mới có thể điềm tĩnh, tự tin mà thắng giặc phương Bắc như thế.
Tiếp đến thời Đinh (968-980), thời Tiền Lê (980-1009) tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc, nhưng phải đến thời Lý, vấn đề mở nước, hưng dân mới phát triển rực rỡ trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…
Thời Lý có thể được coi là một thời đại cực thịnh của Đại Việt, thời kỳ Nho, Phật, Lão đồng nguyên, trong đó đạo Phật là Quốc giáo. Ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đã hạ chiếu tha bổng sưu thuế trong nhiều năm. Trong gần 18 năm cầm quyền đã 3 lần tha, giảm sưu thuế cho nhân dân. Đây có lẽ là một trong những vị vua hiền sáng nhất dân tộc Việt. Ông cũng là người quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long.
Chính vì luôn chăm lo đến đời sống của nhân dân nên Quốc gia Đại Việt thời Lý luôn có biên cương vững chắc, quốc thổ thống nhất, có võ công, có văn hiến, kinh tế, đặc biệt là các nghề nông trang phát triển rực rỡ. Lý Công Uẩn vừa khai sinh triều Lý, vừa đưa thế nước vươn cao khiến các nước lân bang, đặc biệt là giặc phương Bắc phải nể trọng, hãi sợ.
Bước sang vương triều Trần, một vương triều có võ công hiển hách của dân tộc Việt: Đến nay nước sông tuy chảy hoài/ Mà nhục quân thù khôn rửa nổi (Bạch Đằng Giang phú - Trương Hán Siêu). Để có được những võ công ấy thì việc dưỡng sức dân, đồng cam cộng khổ với nhân dân luôn là kế sách hàng đầu. Người đứng đầu cho tư tưởng này chính là Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn. Chính ông có câu nói nổi tiếng cũng là tư tưởng xuyên suốt cuộc đời ông, triều đại nhà Trần mà các triều đại ở những giai đoạn tiến bộ sau đó đều tiếp thu trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Tài năng kiệt xuất của Hưng Đạo vương chính là việc nhận thức rõ nhân dân mới là nguồn sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ông luôn chăm lo sức dân ngay từ thời bình cũng như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc của ông mà đỉnh cao là tư tưởng: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc mới là thượng sách giữ nước”.
Tư tưởng khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc trong nghệ thuật dựng nước và giữ nước chính là quốc sách của cha ông ta từ xưa vậy.